Pages

November 3, 2025

TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ HỌC ÁO - LƯỢC KHẢO (6)

 

EAMONN BUTLER 
PHẠM NGUYÊN TRƯỜNG dịch
TIẾN SĨ NGUYỄN ĐỨC THÀNH hiệu đính 

NHÀ XUẤT BẢN TRI THỨC

Chương 10

Rắc rối với tiền 

           Tiền cũng phải chịu tác động của các lực lượng thị trường như bất kì hàng hóa nào khác. “Giá cả” của nó - số lượng những món hàng hoá khác mà nó mua được - phụ thuộc vào số lượng tiền được cung cấp và người dân cần bao nhiêu tiền để làm phương tiện mua và bán. 

           Các chính phủ, trong vai trò những nhà cung cấp tiền chính, có thể dễ dàng làm mất ổn định sức mua của đồng tiền bằng cách in nhiều tiền hơn - đấy là lạm phát. 

           Khi lạm phát tràn qua các thị trường khác nhau, nó kích thích sự bùng nổ giả tạo mà sau đó chắc chắn sẽ là suy thoái, lỗ vốn, lãng phí các nguồn lực. 

           Lạm phát gây thiệt hại lớn đến mức phải đặt ra những hạn chế mạnh mẽ, không để cho chính phủ tạo ra những vụ bùng nổ do lạm phát gây ra. 

Tiền là một lực lượng đầy sức mạnh trong nền kinh tế hiện đại, vì tất cả các giao dịch đều phải dùng tiền. Nhưng các nhà kinh tế học dòng chính thường hiểu sai bản chất và vai trò của tiền. Họ cảm thấy bối rối, vì dường như nó không phải là tư liệu sản xuất - thực vậy, doanh nhân phải chi tiền chứ không tích luỹ, để mua tư liệu sản xuất. Dường như tiền cũng không phải là hàng hoá tiêu dùng - chỉ có người keo kiệt mới muốn tích cóp tiền chỉ để sướng vì có tiền. Và, vì không hiểu thực chất tiền là gì, các nhà kinh tế học đã tạo điều kiện cho các cơ quan quản lí tiền tệ và ngân hàng tung ra những biện pháp quản lí sai lầm - các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói - và dẫn tới những vấn đề lớn như lạm phát và chu kì kinh doanh, với tất cả những thiệt hại mà chúng gây ra. 

Tiền có giá trị để trao đổi 

Tuy nhiên, các nhà kinh tế học Trường phái Áo, khởi đầu là Mises, đã giúp chúng ta hiểu rõ hơn về bản chất của tiền và cách thức hoạt động của nó. 

Theo Mises, tiền là hàng hoá kinh tế, tương tự bất kì hàng hóa nào khác, mặc dù, chắc chắn đấy là loại hàng hóa không bình thường. Người ta không giữ nó để sản xuất ra những món hàng khác, cũng không tiêu thụ nó để làm cho mình hài lòng. Người ta giữ nó để trao đổi với những món hàng khác. Điểm quan trọng nhất của tiền là nó làm cho trao đổi được dễ dàng hơn. Thay vì phải đi tìm những người có món hàng mà mình muốn và sẵn sàng chấp nhận những món hàng mà chúng ta đem ra trao đổi - như anh thợ cắt tóc đói phải tìm cho bằng được người nướng bánh mì cần cắt tóc - họ chào hàng và chấp nhận món hàng thứ ba, tức là món hàng mà sau đó có thể dễ dàng trao đổi với bất cứ món hàng nào mà họ thực sự muốn. 

Tiền được người ta ưa chuộng và đánh giá cao vì mục đích đặc biệt này. Những tính chất khác của nó, được nhắc tới trong các cuốn sách giáo khoa - ví dụ, chất liệu đặc biệt mà chúng ta sử dụng như tiền có bền hay không hay có dễ chia nhỏ ra hay không hoặc có dễ vận chuyển hay không hoặc có phải là thứ bảo đảm giá trị hay không - là phụ. Tiền là có giá trị vì tính hữu ích của nó, là thứ mà bạn có thể dễ dàng trao đổi. Nó được đánh giá vì sức mua của mình. 

Tiền có gốc rễ trong hàng hoá thực 

Giá trị của tiền trong việc tạo điều kiện thuận lợi cho các vụ giao dịch làm cho Mises tin rằng nó là một cái gì đó xuất hiện từ trong lòng hệ thống thị trường. Ông khẳng định rằng giá trị mà chúng ta gán cho tiền như là phương tiện trao đổi trong ngày hôm nay phản ánh số lượng hàng hóa mà trên thực tế nó mua được trong ngày hôm qua. Tương tự, giá trị của nó trong ngày hôm qua và lí do vì sao người ta sử dụng nó, phản ánh số hàng hoá mà nó mua được một ngày trước đó - và vân vân. Cuối cùng, chúng ta phải lùi đến cái ngày khi bất cứ thứ gì chúng ta sử dụng như đồng tiền có giá trị, không phải là phương tiện trao đổi, mà như một cái gì đó có giá trị tự thân, để có thể dùng nó trao đổi với những hàng hóa khác. Không có gì ngạc nhiên khi từ “tiền” (pecuniary) có nguồn gốc từ từ “pecus”, có nghĩa là gia súc hay lông cừu - những hàng hoá dễ trao đổi và vận chuyển đã từng là hình thức ban đầu của tiền. 

Từ lí thuyết hồi quy đó, Mises đưa ra kết luận nói rằng tiền bao giờ cũng có gốc rễ trong những món hàng hóa hữu ích, có giá trị. Nó không phải là cái mà các chính phủ có thể tạo ra và được người ta tin tưởng vì chính phủ chỉ đạo như thế. 

Giá của tiền 

Tương tự các loại hàng hóa kinh tế khác, có nguồn cung tiền và có nhu cầu về tiền và tiền có giá của nó. Giá của tiền được thể hiện hơi kì cục - không phải là giá trị của hàng hóa mà một đơn vị tiền tệ có thể mua được (bao nhiêu bánh hay bao nhiêu lần cắt tóc 1 USD), mà bao nhiêu tiền thì đổi được các hàng hoá khác (bao nhiêu USD mua được một ổ bánh mì hay một lần cắt tóc) - và chúng ta nói về sức mua của đồng tiền chứ không nói về giá của nó. Tuy nhiên, tương tự các hàng hoá khác, sức mua của đồng tiền cũng là giá cả, được quyết định bởi cách người ta đánh giá nó - thông qua áp lực cung và cầu. 

Cầu về tiền phụ thuộc vào sở thích và những thứ mà các cá nhân liên quan đánh giá cao. Số tiền mà người ta muốn giữ để mua bán có thể phụ thuộc không chỉ vào việc họ đánh giá nó cao đến đâu - như là phương tiện trao đổi, mà còn phụ thuộc vào quy mô của các giao dịch mà họ muốn làm, cũng như quan niệm của họ về tiền và thế giới - họ tin rằng sức mua của đồng tiền đang tăng hoặc giảm, hay họ cảm thấy thoải mái hơn khi có nhiều tiền trong túi. 

Cung tiền cũng phức tạp như thế. Trong số các loại tiền, có những tiền hàng hóa (còn gọi là hóa tệ - ND) như vàng và bạc - những thứ dễ được chấp nhận trong trao đổi, nhưng cũng là những thứ có tính hữu ích tự thân, và do đó cũng được đánh giá cao vì tính hữu ích đó. Và cũng có tiền mặt - những tờ giấy và đồng xu bằng kim loại do các chính phủ quốc gia sản xuất, hầu như không có giá trị tự thân (mặc dù trong vụ siêu lạm phát ở Cộng hòa Weimar (Đức) trong những năm 1920, tiền giấy được người ta dùng như chất đốt rẻ tiền, thay cho củi), nhưng được mọi người chấp nhận như là phương tiện trao đổi. 

Diễn biến của lạm phát 

Tương tự các hàng hoá khác, giá của tiền - sức mua của nó - sẽ giảm nếu nguồn cung tăng mà không tương thích với tăng cầu. Có nghĩa là, người bán sẽ đòi nhiều tiền hơn thì mới trao đổi món hàng của họ. Người mua sẽ phải trả thêm nhiều USD, pounds, yen hay ruble để mua cùng món hàng đó. Đây là sự kiện đã xảy ra ở Cộng hoà Weimar (Đức) và đó là sự kiện vẫn xảy ra trong mỗi lần lạm phát. 

Nói về vấn đề này, các mô hình trong sách giáo khoa có thể hàm ý như thế. Tương tự bất kì thị trường nào khác, họ cho rằng nguồn cung tăng chỉ làm cho giá (hay sức mua) của đồng tiền giảm và sau đó trật tự lại được khôi phục. Các nhà kinh tế học gọi đây là lời giải thích ngây thơ của những người nghiên cứu về tiền. Các nhà kinh tế học Truờng phái Áo nói rằng, ảnh hưởng trên thực tế khác hẳn. Cung tiền gia tăng sẽ khởi động làn sóng thay đổi giá cả, lan tràn lên tất cả các thị trường, lôi kéo nguồn lực, lúc thì tới chỗ này, lúc thì tới chỗ khác, tạo ra những thay đổi trên thực tế và có tính phá hoại. Họ nói, tiền không phải là hàng hóa trung tính. 

Điều đầu tiên cần phải nhớ là việc mở rộng nguồn cung tiền bắt đầu tại một điểm xuất phát nào đó. Nó có thể bắt đầu bằng việc chính phủ in thêm tiền để thanh toán các khoản nợ hay thanh toán các hóa đơn mua hàng hay mở rộng các doanh nghiệp nhà nước. Nó có thể đến từ việc ngân hàng trung ương hạ lãi suất và các ngân hàng khác tạo ra thêm nhiều tiền hơn nhằm định hình các khoản thế chấp, thấu chi và các khoản cho khách hàng vay. Do đó, những đồng tiền mới tạo ra hiệu ứng đầu tiên của nó ngay tại điểm đó. Ví dụ, các nhà cung cấp cho chính phủ và công nhân của chính phủ có thể là những người đầu tiên được hưởng lợi từ việc đưa thêm tiền giấy ra thị trường. Họ thấy hoàn cảnh của mình được cải thiện và chi tiêu nhiều hơn trước. Điều đó lại cải thiện hoàn cảnh của các nhà cung cấp của họ, và những đồng tiền mới tiếp tục lan tỏa từ đó tới các nhà cung cấp tiếp theo, v.v... làm cho giá cả gia tăng và ở mỗi giai đoạn đều lôi kéo các khoản đầu tư và các nguồn lực. 

Việc ngân hàng tăng các khoản cho vay cũng tạo ra những làn sóng tương tự. Các chủ gia đình có thể nghĩ rằng có thể đủ khả năng vay để mua hay thuê những ngôi nhà lớn hơn, do đó, chuyển đến những ngôi nhà đắt tiền hơn và giá nhà tăng. Các nhà đầu tư có thêm tiền, họ sẽ dùng khoản tiền đó để mua cổ phiếu, trái phiếu và các tài sản tài chính khác, do đó, giá của những tài sản này cũng tăng. Đồng thời, các doanh nhân cũng thấy dễ dàng vay vốn hơn để đầu tư vào các dự án sản xuất mới, tạo ra làn sóng đầu tư quá lạc quan, đấy là khởi đầu cho chu kì kinh doanh. Hayek nói, hiệu ứng mà nó gây ra tương tự mật ong đổ lên mặt bàn. Nó làm cho giá cả ở nơi mà nó được đổ ra tăng cao hơn hẳn. Giá cao lôi kéo nguồn lực đến đó, nhưng khi các ngân hàng hay chính quyền ngừng rót tiền mới thì giá lại giảm và các khoản đầu tư đã được thực hiện sẽ sụp đổ. 

Tiền không phải là hàng hóa trung tính 

Ngay cả khi những đồng tiền mới có thể lan tỏa một cách đều đều trên tất cả các thị trường - như thể được thả từ máy bay trực thăng - ảnh hưởng của nó lên giá cả cũng sẽ không thể giống nhau. Một số người sẽ chi tiêu ngay số tiền được nhận thêm, trong khi những người khác, có lẽ là những người thận trọng hơn, sẽ tiết kiệm. Và, vì mọi người bây giờ đã có thêm một ít tiền, không có nghĩa là họ mua thêm mỗi thứ một ít. Họ có thể mua nhiều hàng xa xỉ hơn, gây ra vụ bùng nổ đối với các nhà sản xuất hàng xa xỉ, nhưng có thể họ hoàn toàn không tăng chi cho thực phẩm. Vì vậy, lạm phát tạo ra sự thay đổi thực sự trong khuôn mẫu tiêu thụ, và do đó tạo ra thay đổi trong khuôn mẫu hàng hóa được sản xuất. 

Khi cơn bão giá tiếp tục lan rộng, mọi người có thể có những quan điểm khác nhau về ý nghĩa của nó. Những ai tin rằng giá cả tăng cao là thực và kéo dài có thể tiêu tiền ngay, trước khi giá tăng thêm. Những người tin rằng giá lên chỉ là tạm thời sẽ giữ tiền lại. Vì vậy, một lần nữa, sẽ có sự chuyển nguồn lực từ nhóm người này sang nhóm người khác, tùy thuộc vào việc ai là người đoán đúng. Tương tự, nếu giá tiếp tục tăng, người vay sẽ được lợi, vì họ sẽ được trả các khoản vay bằng những đồng tiền ít giá trị hơn hẳn, còn người cho vay thì sẽ bị thiệt. Một lần nữa, có một sự thay đổi thực sự trong phân bổ nguồn lực giữa những người khác nhau. 

Nếu chính quyền và các ngân hàng không kiềm chế được thì vụ bùng nổ sẽ tiếp tục và giá cả sẽ ngày càng tăng nhanh hơn. Ngày càng có nhiều người tìm cách chi tiêu bất cứ khoản tiền nào mà họ có trước khi tiền mất thêm sức mua. Việc mua bán điên rồ như thế sẽ một lần nữa đẩy giá lên. Người ta sẽ tìm cách vay mượn thêm để theo kịp đà tăng giá - nhưng cuối cùng, chính quyền không thể in tiền nhanh đến mức có thể theo kịp đà tăng giá, trong khi khả năng cho vay của các ngân hàng đã đạt đến giới hạn, vụ bùng nổ chấm dứt, để lại các thị trường trong tình trạng hỗn loạn. 

Ngăn chặn tai họa do lạm phát gây ra 

Phần lớn mọi người đều cho rằng lạm phát có nghĩa là giá cả tăng, nhưng các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói rằng lạm phát là gia tăng trong cung tiền, làm cho giá cả tăng và mọi sự hỗn loạn khác. Quan điểm của họ là, trước hết, chính sách phải tập trung vào những biện pháp nhằm ngăn chặn không để xảy ra việc nới lỏng cung tiền mang tính lạm phát như thế. 

Một trong những khả năng là ngăn chặn, không cho các chính phủ in tiền - tiền giấy và tiền xu mà chúng ta sử dụng trong buôn bán - mà không có giới hạn nào. Chúng ta có thể neo số lượng tiền giấy và tiền xu, hay những thứ khác có thể được sử dụng để trao đổi, vào giá cả, ví dụ: Nếu giá bắt đầu tăng, chính phủ phải giảm nguồn cung tiền mà họ tạo ra. Nhưng đây không phải là nhiệm vụ dễ dàng, vì (như các nhà kinh tế học Trường phái Áo đã nói) không có cái gọi là “mức giá”, giá các món hàng khác nhau luôn luôn dao động, lên và xuống. Sự chuyển động của bất kì chỉ số giá cả nào cũng đều phụ thuộc vào “giỏ” các loại hàng hóa khác nhau mà nó theo dõi. Lựa chọn “giỏ” hàng chắc chắn là sẽ gây ra tranh cãi. Chọn sai “giỏ” hàng thì vẫn có khả năng là bạn đang gây ra lạm phát mà không biết. 

Khả năng khác là ngăn chặn, hoàn toàn không cho các chính phủ phát hành bất kì loại tiền giấy nào. Ví dụ, Mises nói rằng nhiệm vụ đầu tiên của các cơ quan quản lí tiền là khẳng định và ủng hộ bất cứ phương tiện tiền tệ dựa trên hàng hóa (hóa tệ) nào mà người dân đã quyết định sử dụng. Trong quá khứ, vàng và bạc đã giành được lòng tin của người dân, chúng được coi là những loại tiền đáng tin cậy và thích hợp, nhưng tiền không nhất thiết phải là một trong những kim loại này, thậm chí không cần phải là kim loại. Dù người dân chấp nhận cái gì làm phương tiện trao đổi thì chính sách cũng phải ủng hộ. 

Đương nhiên là, chuyển sang hóa tệ, như vàng, sẽ là vấn đề gây nhiều tranh cãi và khó khăn. Dĩ nhiên là, vàng sẽ tăng giá rất mạnh vì người ta bắt đầu cần vàng không chỉ cho mục đích trang trí hay trao đổi, mà vì nó có giá trị như phương tiện trao đổi. Đáng ngạc nhiên là, trên thế giới chỉ có một ít vàng (theo một ước tính thì chỉ bằng một phần ba trọng lượng Đài tưởng niệm Washington), trong khi lúc nào cũng có hàng tỉ giao dịch. Nhiều người cho rằng quay lại sử dụng vàng như một loại tiền không phải là ý tưởng thực tế. 

Hayek đưa ra đề xuất khác: Cho phép các loại tiền cạnh tranh với nhau. Nhiều chính phủ nắm độc quyền đồng tiền riêng của mình: Họ ra lệnh rằng đồng tiền này có thể được sử dụng để thanh toán bất kì khoản nợ nào và không được sử dụng bất kì loại tiền nào khác, hay luật pháp sẽ không công nhận các loại tiền khác, làm cho những người buôn bán hay cho vay bằng những loại tiền đó trở thành trắng tay, nếu khách hàng và người đi vay không trả. Tuy nhiên, nếu người ta có thể sử dụng loại tiền mà mình lựa chọn - sao cho một người ở Anh có thể sử dụng USD hay rouble, ví dụ thế, trong khi một người ở Mĩ có thể sử dụng đồng yen hoặc đồng euro hoặc thậm chí một số đồng tiền mới được phát hành bởi tổ chức nào đó - thì mọi người sẽ có khuynh hướng sử dụng đồng tiền mà họ nghĩ là sẽ giữ được một cách tốt nhất giá trị của nó, vì đồng tiền ổn định sẽ làm cho việc tính toán kinh doanh trở nên dễ dàng hơn hẳn, đặc biệt là khi cần tính toán. Đến lượt mình, cạnh tranh về tiền tệ sẽ gây áp lực các chính phủ, buộc họ phải chống lại các chính sách gây ra lạm phát, và do đó, tự tránh tình trạng túng quẫn, vì người dân không sử dụng đồng tiền của họ và chuyển sang dùng đồng tiền khác. Cho phép người dân lựa chọn đồng tiền chắc chắn là có hiệu quả: Nhiều nước có tỉ lệ lạm phát cao đã có hiện tượng những người buôn bán dùng USD hay euro trong các giao dịch. Tuy nhiên, các chính phủ còn chần chừ, chưa chịu bỏ quyền kiểm soát mà sự độc quyền tiền tệ đã mang tới cho họ. 

Hoạt động ngân hàng bằng cách dự trữ theo tỉ lệ 

Nhiều nhà kinh tế học Trường phái Áo cũng muốn có hành động đối với việc cho vay của ngân hàng. Hiện nay, người ta chỉ đòi hỏi các ngân hàng giữ lại một phần nhỏ (ví dụ, 10%) tiền của người gửi trong kho tiền của ngân hàng để đáp ứng yêu cầu thanh toán của khách hàng. Ngân hàng có thể cho vay phần còn lại. Nếu họ cho các ngân hàng vay, đến lượt mình các ngân hàng này có thể cho các ngân hàng khác vay 90% số tiền đó. Vì vậy, nếu các ngân hàng nhận được nhiều tiền gửi hay nới lỏng điều kiện cho vay thì đấy là cơ hội thông qua hệ thống ngân hàng mà nhân số tiền này lên gấp nhiều lần. Như vậy là, ví dụ, một sự gia tăng khiêm tốn trong việc cung cấp tiền giấy của chính phủ đã có thể gây ra ảnh hưởng lớn hơn hẳn đối với nền kinh tế thực, hiệu ứng tiêu cực mà nó gây ra cũng lớn hơn nhiều. 

Một số nhà kinh tế học Trường phái Áo sẵn sàng cấm hoàn toàn hoạt động ngân hàng bằng cách dự trữ theo tỉ lệ và buộc các ngân hàng phải giữ 100% tiền gửi của khách. Họ khẳng định rằng làm như thế sẽ vô hiệu hóa những nguy hiểm tiềm tàng của việc nhân thêm tiền và các ngân hàng sẽ không bỏ chạy, vì người gửi tiền biết rằng tất cả tiền của họ đều được giữ một cách an toàn. Tuy nhiên, trên thực tế, khó có thể tin rằng nhiều khách hàng sẵn sàng trả tiền cho các ngân hàng chỉ để giữ tiền chứ không được nhận lãi như hiện nay.

Một lần nữa, cạnh tranh có thể cung cấp cho chúng ta giải pháp. Lawrence White viết rất nhiều về lịch sử và tính thực tiễn của ngân hàng tự do. Ông cho rằng, các ngân hàng sẽ hoạt động tốt hơn hẳn nếu họ không bị các chính phủ quản lí chặt chẽ và không phải tuân thủ những đòi hỏi về các khoản dự trữ cố định, do chính quyền quy định như hiện nay. Họ sẽ giữ đúng số tiền mặt và những khoản dự trữ lưu động mà họ nghĩ là cần để có thể tiếp tục thanh toán số tiền mà người gửi rút ra mỗi ngày. Và họ sẽ (theo đúng nghĩa đen) kiếm tiền bằng cách in thêm nhiều tiền giấy hơn là số tiền họ có trong kho để thanh toán cho người gửi. Khi mọi người nghĩ rằng công tác quản lí tài chính của ngân hàng là vững chắc thì họ sẽ chấp nhận những tờ tiền giấy của ngân hàng theo đúng mệnh giá. Nhưng nếu người dân bắt đầu lo lắng về sự an toàn của ngân hàng, thì người ta sẽ thận trọng hơn - có lẽ họ sẽ chấp nhận đồng tiền của ngân hàng này với giá thấp hơn chứ không phải theo giá trị ghi trên đó, nhằm thể hiện nguy cơ là ngân hàng có thể bỏ chạy và không thể trả tiền cho người gửi và người giữ những tờ tiền của ngân hàng này. Tuy nhiên, sự kiện là tiền giấy của một ngân hàng nào đó bị người ta mua bán ở mức giá thấp hơn sẽ gửi tín hiệu đầy sức mạnh rằng ngân hàng này cần củng cố vị thế tài chính của nó và cũng là để tránh những mối nguy hiểm này, và đây là điều kiện đủ để giữ cho các ngân hàng luôn luôn vững mạnh. 

Trong thế kỷ XIX, Ngân hàng Suffolk, ở Boston, đã hoạt động như phòng thanh toán bù trừ, trao đổi những tờ tiền giấy của các ngân hàng khác mà khách hàng có thể cảm thấy khó tiếp cận, có giảm giá khi xuất hiện những lo lắng về sự ổn định của các ngân hàng đó. Các hệ thống như thế không cần ngân hàng trung ương vì không có loại tiền quốc gia do nhà nước phát hành. Tuy nhiên, để cho hệ thống hoạt động, ở đó có thể không cần chính phủ cứu trợ các ngân hàng thất bại: Việc này đơn giản chỉ khuyến khích các ngân hàng có những bước đi ngày càng nhiều rủi ro hơn, vì họ biết rằng người đóng thuế sẽ cứu họ. Chính sự kiện là những khách hàng lo lắng và rút ra toàn bộ tiền của mình sẽ làm cho các ngân hàng tự do giữ công việc kinh doanh và đồng tiền của mình đủ vững chắc, nhằm giữ vững lòng tin của khách hàng - có thể còn nhiều hơn là người ta có thể nói về các ngân hàng thương mại phải tuân thủ các quy định của chính phủ và của các ngân hàng trung ương như hiện nay. 

Chương 11 

Hạn chế của chủ nghĩa xã hội trong kinh tế 

           Mọi người tham gia trao đổi tự do, tự nguyện vì cả hai bên đều tự cho là nó cải thiện hoàn cảnh của mình. Chủ nghĩa xã hội, trong kinh tế có phần cản trở trao đổi tự do, do đó, làm giảm lợi ích mà nó tạo ra cho con người. 

           Sản xuất là quá trình phức tạp. Sản xuất bao nhiêu cũng được và bằng vô số cách khác nhau. Không có kim chỉ nam là giá cả, không biết cái gì là khan hiếm và khan hiếm đến mức nào, những người xã hội chủ nghĩa không thể có biện pháp tính toán cái gì ở đầu vào và đầu ra là đáng giá. 

           Trong chủ nghĩa xã hội, phương tiện sản xuất thường là sở hữu toàn dân và không bao giờ được mua hay bán, vì vậy mà không có giá - dẫn đến những tính toán sai lầm và lãng phí. Nếu không có sức cám dỗ của lợi nhuận, thì chẳng có gì có thể khuyến khích người ta cải tiến. 

Các nhà kinh tế học Trường phái Áo coi thị trường là biện pháp phân bổ các nguồn lực một cách tự nhiên và hiệu quả - sử dụng tất cả các thông tin có liên quan mà ai cũng có thể tiếp cận được. Họ khẳng định rằng trao đổi tự do làm cho cả hai bên đều có lợi - nó phải làm như thế, vì, như Menger đã chỉ ra, không có người nào tự nguyện tham gia trao đổi nếu nghĩ rằng nó sẽ làm cho hoàn cảnh của họ xấu đi. Do đó, trao đổi cũng làm lợi cho người ta chẳng khác gì sản xuất - cái mà những người xã hội chủ nghĩa, quá chú ý vào sản xuất, thường bỏ qua. 

Thị trường tự do, trong đó, trao đổi là tự nguyện, do đó, tối đa hóa giá trị cho con người. Bất cứ cái gì gây cản trở - buộc người ta giao dịch theo một cách nào đó hay ngăn cản, không để họ trao đổi tự nguyện - đều làm giảm giá trị do thương mại tạo ra. Tất nhiên, đây là cái mà các chính phủ thường tìm cách làm, bằng những quy định về loại hình kinh doanh được thực hiện và cấm tuyệt đối một số hình thức giao dịch, trên cơ sở “lợi ích công cộng”. Nhưng các nhà kinh tế học Trường pháo Áo nói rằng, đấy đơn giản chỉ là thay thế cho lợi ích công cộng đích thực - như được chỉ ra bởi sự kiện là tất cả những người tham gia buôn bán đều cho rằng hoàn cảnh của mình được cải thiện - bằng ý tưởng chính trị có sẵn về lợi ích công cộng mà thôi. 

Vì vậy, chính trị và chính phủ không nên can thiệp vào các thị trường tự do. Có thể cần một số quy định của chính phủ để đảm bảo rằng thị trường là tự do thực sự và để đảm bảo rằng người dân không bị ép buộc tham gia giao dịch. Và có thể cần chính quyền để đảm bảo rằng người ta thực sự cung cấp hàng hóa và dịch vụ theo hợp đồng và thanh toán hoá đơn sau khi nhận hàng. Ngoài cái đó ra, sự can thiệp của nhà nước chỉ có hại - và một số nhà kinh tế học Trường phái Áo, ví dụ, Rothbard, cho rằng những người tham gia trên thương trường có thể lựa ra được những điều kiện cơ bản của thị trường mà không cần lực lượng cưỡng ép của chính phủ. 

Phê phán Marx ở góc độ kinh tế 

Xung đột giữa các nhà kinh tế học Trường phái Áo và chủ nghĩa xã hội bắt đầu ngay từ rất sớm. Tư tưởng của Menger nói rằng giá trị không phải là chất lượng của món hàng, mà giá trị chỉ tồn tại trong đầu óc của các cá nhân cho rằng nó có ích, đã trực tiếp mâu thuẫn với tư tưởng, do Karl Marx quảng bá, nói rằng giá trị của món hàng là lượng lao động được sử dụng để sản xuất ra nó. Theo lí thuyết giá trị lao động, càng nhiều công lao động được bỏ ra để sản xuất một cái gì đó thì giá trị của nó càng lớn. 

Tuy nhiên, lí thuyết này không vượt qua được thử thách. Menger đã chỉ ra rằng món hàng không có giá trị chỉ vì người sản xuất đã bỏ ra nhiều thời gian và công sức để làm ra nó. Nó chỉ có giá trị khi người tiêu dùng thực sự muốn nó và hài lòng về nó. Các lí thuyết kinh tế và chính trị của Marx lấy người sản xuất làm kim chỉ nam là lí thuyết đặt chân lên đầu: Không phải công sức làm ra món hàng làm cho nó có giá trị, mà giá trị mà người tiêu dùng đặt vào nó quyết định đáng đầu tư bao nhiêu công sức để sản xuất ra nó. 

Böhm-Bawerk còn phê phán Marx một cách bao quát và tinh tế. Cụ thể, ông khẳng định rằng Marx đã hoàn toàn quên tầm quan trọng của thời gian trong quá trình sản xuất. Trên cơ sở lí thuyết giá trị lao động, Marx tin rằng các ông trùm tư bản đã bóc lột công nhân, vì đã nhận được mấy ngày lao động - và do đó, giá trị từ trước, mà chỉ trả lương cho công nhân vào cuối tuần. Ngược lại, Böhm-Bawerk nói: Với quá trình sản xuất rắc rối, kéo dài, phức tạp và “lòng vòng”, đặc trưng của nền kinh tế hiện đại, có thể phải mất mấy tháng hay thậm chí mấy năm trước khi sản phẩm được đưa ra thị trường - và chỉ khi đó, doanh nhân mới được trả tiền. Trên thực tế, các doanh nhân trả cho công nhân thu nhập trước khi có doanh thu mà họ hi vọng sẽ nhận được sau khi bán những hàng hoá mà người ta sản xuất được. 

Đấy thậm chí không phải là hi vọng chắc chắn. Nó còn là rủi ro mà doanh nhân chấp nhận, cùng với gánh nặng tài chính và công việc tổ chức quá trình sản xuất phức tạp và “lòng vòng”. Tiền lương trả cho công nhân chỉ có thể phản ánh điều mà hiện nay người ta kì vọng rằng sản phẩm của họ sẽ có giá trị trong tương lai, khi chúng được đưa ra trước người tiêu dùng. Hiển nhiên là, các doanh nhân và công nhân có thể không đồng ý về mức lương, doanh nhân (người chấp nhận rủi ro) có thể sẽ thận trọng hơn công nhân và những người đại diện của họ. Đấy là lí do vì sao lại có những vụ tranh chấp về tiền lương. Nhưng tranh chấp là sự khác biệt hoàn toàn mang tính tự nhiên trong đánh giá, chứ không phải là dấu hiệu rằng một người nào đó đang bị bóc lột. 

Cuộc tranh luận về tính toán xã hội chủ nghĩa trong kinh tế 

Mises bồi thêm một đòn nữa vào chủ nghĩa xã hội về kinh tế nói chung, đấy là cái mà người ta gọi là cuộc tranh luận về tính toán xã hội chủ nghĩa hồi những năm 1920 và 1930. Quan điểm của ông là các phương pháp sản xuất hiện nay rất phức tạp và để sản xuất ra những thứ cần trong nền kinh tế hiện đại phải có một lượng lớn đầu vào. Tất nhiên, mỗi thứ đều có thể được sử dụng theo rất nhiều cách khác nhau, trong rất nhiều quá trình sản xuất khác nhau, để tạo ra một số lượng lớn các sản phẩm thay thế. Làm sao người lập kế hoạch xã hội chủ nghĩa biết nên chọn đầu vào nào, quy trình nào và sản phẩm nào? 

Ví dụ, nền kinh tế xã hội chủ nghĩa nên sản xuất thêm rượu hay thêm dầu? Để sản xuất một trong hai thứ đó cần các loại và số lượng đất đai, kho lưu trữ, chai, thùng, vận chuyển, và nhiều thứ khác nhau khác. Mỗi quyết định về việc sản xuất một cái gì đó lại phải có nhiều quyết định khác, muốn sản xuất nó thì cần những cái gì và làm sao phối hợp được những biện pháp sử dụng tư liệu sản xuất có thể mâu thuẫn với nhau. Như Hayek nói, số lượng các lựa chọn là quá lớn, đầu óc của con người không thể kham nổi. 

Trong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, cơ cấu và phương hướng của sản xuất, tất nhiên, được thúc đẩy bởi cơ chế rất đơn giản là giá cả. Giá của món hàng tiêu dùng phản ánh giá trị mà người ta gán cho nó, khi họ trao đổi những món hàng hóa khác nhau trên thị trường. Đến lượt mình, giá cả nói cho người sản xuất biết cần phải chi bao nhiêu để sản xuất ra sản phẩm cụ thể đó. Do đó, giá của tư liệu sản xuất, như nhà xưởng, máy móc và đầu vào được sử dụng, sẽ cho người mua cuối cùng biết giá trị của món hàng tiêu dùng đó. Bằng cách này, giá của tư liệu sản xuất sẽ thu hút các nguồn lực sản xuất đến nơi mà chúng tạo ra giá trị cao nhất cho người tiêu dùng - thu hút một cách trực tiếp và hiệu quả. 

Thế nhưng, trong nền kinh tế xã hội chủ nghĩa, tư liệu sản xuất lại là sở hữu tập thể (Hàng hóa tiêu dùng không thể là sở hữu tập thể, vì một nhóm người không thể cùng mặc một cái áo hay cùng ăn một thanh soô-coô-la: vì vậy, những người xã hội chủ nghĩa chú tâm kêu gọi sở hữu tập thể tư liệu sản xuất, tức là cái có thể được sở hữu theo lối tập thể). Nhưng, nếu tư liệu sản xuất được sở hữu theo lối tập thể và không bao giờ có chuyện mua và bán thì không có thị trường mua bán những thứ đó và vì vậy mà không thể thiết lập được giá cả cho tư liệu sản xuất. Người lập kế hoạch xã hội chủ nghĩa không có biện pháp đơn giản để quyết định phải kết hợp những nguồn lực nào trong hàng triệu nguồn lực, theo cách nào trong hàng triệu cách khả dĩ, để sản xuất ra món hàng tiêu dùng nào trong hàng triệu món khác nhau. 

Vấn đề phối hợp 

Đó là khó khăn lớn, vì tư liệu sản xuất là khác nhau: rất đa dạng, có nhiều hình thức và phẩm chất khác nhau. Không có đơn vị tính toán duy nhất, lựa chọn giữa những tư liệu này cũng giống như chọn giữa dầu và rượu vậy. Không có kim chỉ nam về giá cả, lựa chọn phụ thuộc vào ý kiến cá nhân của những người lập kế hoạch - trái với ý kiến của công chúng, mà đấy lại là cái thúc đẩy sản xuất trong nền kinh tế thị trường. 

Đây không phải là vấn đề thuần tuý kĩ thuật, có thể khắc phục được bằng cách thu thập đầy đủ số lượng máy tính, như một số người xã hội chũ nghĩa đề xuất. Không có người lập kế hoạch xã hội chủ nghĩa nào có hiểu biết trực tiếp về giá trị mà những người khác nhau gán cho những món hàng hóa khác nhau. Giá trị mang tính cá nhân và thông tin về sự khan hiếm hàng hóa là không đầy đủ, phân tán, thay đổi nhanh chóng, khác nhau về chất lượng, đa dạng về hình thức và thậm chí là khó chuyển sang máy tính. Không có đơn vị tính toán như giá cả, không thể nào so sánh được các mẩu thông tin và loại thông tin khác nhau. Không có cơ sở như thế để so sánh, thì không thể hành động với thông tin có sẵn theo bất kì biện pháp duy lí và đồng bộ nào. Một lần nữa, nó lại phụ thuộc vào lựa chọn cá nhân của những người có quyền lực. 

Một số người xã hội chủ nghĩa phản ứng lại bằng cái mà họ gọi là chủ nghĩa xã hội thị trường, trong đó, những người lập kế hoạch chỉ đạo việc sử dụng tư liệu sản xuất như thể thị trường vẫn hiện diện. Nhưng, Mises vặn lại rằng, nếu không có thị trường thì những người lập kế hoạch không thể biết nó hoạt động như thế nào. Nếu quanh đó có thị trường mà những người lập kế hoạch có thể hi vọng sao chép - thì bao giờ họ cũng sẽ lẽo đẽo chạy theo những phát triển mới, và do đó, ít nhất, họ sẽ đánh mất một số giá trị. Nhưng mục đích của chủ nghĩa xã hội thế giới là giải phóng thế giới khỏi sở hữu tư nhân, và do đó giải phóng khỏi thị trường - lúc đó, những người lập kế hoạch sẽ hoàn toàn không có định hướng. Sẽ không còn thị trường tư liệu sản xuất để hướng dẫn cơ cấu sản xuất và không có thị trường vốn để đánh giá những khả năng sản xuất khác nhau và phân bổ một cách hiệu quả đồng vốn. Không có lợi nhuận thì sẽ không có doanh nhân nào sẵn sàng ứng phó trước những biến động của những nguồn lực khan hiếm và làm những việc cần thiết. Không có những cố gắng nhằm “cải thiện” thì thị trường sẽ tạo không ra nhiều giá trị như chính thị trường vẫn tạo ra và kế hoạch hoá tập quyền hoàn toàn đơn giản là không thể hoạt động được. Nó có thể vẫn sống dặt dẹo trong thời gian dài, nhưng sẽ tạo ra ít giá trị hơn là thị trường, và nó càng dặt dẹo lâu thì thiếu hụt sẽ càng ngấm sâu hơn.


No comments:

Post a Comment