Chương 8
Thời gian, [quá trình] sản xuất, vốn và lợi tức
• Vì sản xuất đòi hỏi thời gian, sự thay đổi của sự kiện hay sở thích của con người có thể dẫn đến kết quả là các nguồn lực bị lãng phí. Khi nói về tài sản vốn thì quan trọng không phải là chúng ta có bao nhiêu tiền, mà vốn có cơ cấu như thế nào.
Các doanh nhân có thể được thúc đẩy bởi lợi nhuận, nhưng trên thực tế, họ là đầy tớ của người tiêu dùng. Chính nhu cầu của người tiêu dùng sẽ quyết định sản xuất cái gì, sản xuất như thế nào.
Cái mà các nhà kinh tế học gọi là tư liệu sản xuất - như nhà máy, máy móc, dụng cụ, thiết bị, phương tiện buôn bán cộng với tất cả các thành tố được sử dụng trong bất kì quy trình sản xuất nào - chỉ có một mục đích. Và mục đích là tạo ra hàng hoá cuối cùng mà chúng ta sử dụng hay tiêu thụ - gọi là hàng tiêu dùng như chocolate, máy sấy tóc, bút, bia, báo giấy, đồ chơi và tất. Không ai muốn tư liệu sản xuất chỉ là tư liệu sản xuất, mà họ muốn chúng tạo ra hàng hóa tiêu dùng. Đối với chúng ta, giá trị của tư liệu sản xuất là do giá trị hàng hóa tiêu dùng mà chúng tạo ra - hay chí ít, chúng ta kì vọng là chúng sẽ tạo ra.
Đầu tư nhằm nâng cao năng suất lao động
Tại sao chúng ta lại bận tâm và mất tiền xây dựng tư liệu sản xuất? Vì chúng ta hi vọng rằng chúng sẽ tiết kiệm cái mà chúng ta đánh giá cao - thời gian và công sức. Xin sử dụng ví dụ của Mises, một người có thể bắt đủ cá để ăn bằng cách lội xuống suối và bắt bằng tay. Nhưng người đó có thể dùng lưới để bắt cá, dễ hơn hẳn. Lưới sẽ làm cho công sức của người bắt cá trở nên hiệu quả hơn hẳn.
Tất nhiên, đan lưới cũng đòi hỏi thời gian và sức lao động; ngoài ra, cần phải tìm vật liệu và làm thành sợi để có thể đan lưới. Nhưng, các cá nhân có thể tính toán rằng cần đầu tư thời gian và công sức, vì nó sẽ làm giảm thời gian và công sức mà sau này họ sẽ phải bỏ ra. Thật vậy, nó có thể giúp họ bắt được nhiều cá hơn trong khoảng thời gian ngắn hơn, họ có thể bán cá cho những người khác để lấy tiền mặt hay đổi lấy thứ gì khác mà họ cho là có giá trị. Hoặc họ có thể bắt những thứ thú vị hơn - ví dụ, cá biển - mà chỉ dùng tay thì không thể bắt được, tức là tăng thêm giá trị mà quá trình đánh bắt cá của họ tạo ra.
Tính toán về việc có đan
lưới hay không, không phải hoàn toàn đơn giản. Muốn dành thời gian cần thiết để
đan lưới, người đó phải nhịn đói một thời gian hay phải dự trữ đủ cá để sống
trong thời gian đó. Họ có thể cần nhiều cá hơn để trao đổi với những người khác
lấy các vật liệu mà họ cần để đan lưới. Và họ cần phải tin rằng, trên thực tế,
lưới sẽ tạo được kết quả mà họ đã dự kiến. Hôm nay chúng ta có thể nói rằng họ
cần tiền để sống và đầu tư vào tư liệu sản xuất tốt là lưới đánh cá và rằng họ
đang nghĩ rằng đầu tư, trên thực tế, sẽ làm cho họ có lời.
Một lần nữa, thị trường sẽ tưởng thưởng cho những người dự đoán chính xác nhất hàng hóa tiêu dùng mà mọi người thực sự mong muốn và họ sẵn sàng trả bao nhiêu tiền cho món hàng đó. Doanh nhân có thái độ quá bi quan về giá cả hàng tiêu dùng trong tương lai sẽ không tham gia cạnh tranh để giành những nguồn lực sản xuất như đất đai, máy móc và lao động. Trong khi đó, doanh nhân quá lạc quan sẵn sàng trả giá cao cho những tài sản đó, sẽ bị lỗ khi sản phẩm cuối cùng được đưa ra thị trường. Chỉ có những người dự đoán chính xác về giá cả của hàng tiêu dùng trong tương lai thì mới thành công.
Vì vậy, có vốn không đảm bảo rằng tương lai sẽ trở thành giàu có. Vốn không tự “sinh ra chính nó” và không “tạo ra lợi nhuận”, như Marx nói. Thứ nhất, vốn phải được tích lũy bằng hành động có chủ ý của những người sẵn sàng chấp nhận rủi ro, tạm thời chưa tiêu dùng và tạo ra hàng hoá vốn, tương tự người đang đói ngồi đan lưới bắt cá. Thứ hai, vốn có thể bị mất và lãng phí. Có thể bị mất vốn do sai lầm, đấy là khi doanh nhân đánh giá sai suy nghĩ của người tiêu dùng. Và, thứ ba, vốn có thể được mang ra tiêu dùng, đấy là khi một người nào đó bán thiết bị sản xuất để thanh toán các hóa đơn hay trả tiền cho các món hàng tiêu dùng.
Tất cả những việc này tạo áp lực lên các doanh nhân, buộc họ phải thận trọng nhằm dự đoán đúng, và do đó, tìm cách giữ giá cả tư liệu sản xuất ăn khớp với giá cả hàng hoá tiêu dùng để họ có thể tiếp tục sản xuất. Nó thường xuyên khuyến khích doanh nhân đầu tư vào các tư liệu sản xuất mang lại giá trị cao nhất cho người tiêu dùng, và tìm ra những biện pháp tốt nhất và rẻ nhất nhằm đáp ứng những nhu cầu đó.
Quá trình sản xuất đòi hỏi thời gian
Tuy nhiên, theo các nhà kinh tế học Trường phái Áo, quan trọng là sản xuất đòi hỏi thời gian. Trong nền kinh tế hiện đại, tư liệu sản xuất thường phức tạp hơn hẳn cái lưới đánh cá và quá trình sản xuất có thể lâu hơn thời gian đan lưới và tung nó xuống sông. Có thể bao gồm nhiều bước và phải lắp ráp nhiều thành phần với nhau. Thậm chí, tư liệu sản xuất mà chúng ta xây dựng được và hàng hoá tiêu dùng phức tạp mà chúng ta sản xuất ra còn đòi hỏi những khoản đầu tư thêm về thời gian và sức lao động để giữ cho chúng hoạt động và được bảo trì. Hàng tiêu dùng của chúng ta cũng sẽ không tồn tại mãi: Chúng có ích cho chúng ta cho đến khi chúng ta dùng hết, hay cần phải sửa chữa hoặc thay thế.
Vì vậy, khi tham gia sản xuất là chúng ta phải lựa chọn - không chỉ lựa chọn các phương tiện và vật tư mà chúng ta sẽ sử dụng, mà còn lựa chọn cách thức chúng ta đánh giá thời gian của mình. Chúng ta có thích dành nhiều thời gian hơn để làm ra những món hàng chất lượng cao, lâu bền hay không? Hay chúng ta thích những món hàng được sản xuất nhanh hơn và rẻ hơn, mặc dù không bền? Không có câu trả lời “đúng” cho những câu hỏi như vậy, nó hoàn toàn phụ thuộc vào cách đánh giá của những người ra quyết định.
Vì vậy, cách chúng ta đánh giá thời gian là yếu tố thiết yếu trong tất cả những hành động mà chúng ta làm. Đương nhiên là, chúng ta muốn có cái mà chúng ta đánh giá cao ngay bây giờ chứ không phải sau này. Tuy nhiên, một số người đánh giá rất cao việc được thoả mãn ngay lập tức và tiêu thụ ngay tất cả mọi thứ mà họ kiếm được, trong khi những người khác thích tiết kiệm và tạm hoãn thoả mãn hôm nay với hi vọng sẽ được thoả mãn nhiều hơn trong tương lai.
Xin xem xét trường hợp một
người đứng trước lựa chọn tiêu 100 USD ngay bây giờ hay gửi vào ngân hàng với
lãi suất 4% và sẽ được nhận 104 USD sau một năm. Nếu họ cho rằng thời gian chẳng
có giá trị gì, họ sẽ không có gì để mất khi chờ đợi. Họ sẽ đưa vào ngân hàng số
tiền đó và sau này sẽ nhận được 104 USD. Nhưng thời gian của chúng ta là có hạn,
và tương tự tất cả mọi nguồn lực khan hiếm khác, thời gian có giá trị đối với
chúng ta. Một số người có thể muốn được tưởng thưởng lớn hơn bằng cách không
tiêu tiền trong một năm, còn một số người không muốn thế: Nhưng, chí ít, tất cả
mọi người đều cho thời gian một số giá trị nào đó.
Có tạo ra tư liệu sản xuất hay không - tương tự như lưới đánh cá hay nhà máy sản xuất ô tô - do đó, không chỉ là vấn đề tìm được công nghệ đúng. Vì sản xuất đòi hỏi thời gian, việc quyết định nên trì hoãn tiêu dùng và xây dựng tư liệu sản xuất phụ thuộc vào cách bạn đánh giá thời gian của mình - sở thích theo thời gian của bạn. Bạn có thể biết cách đan lưới bắt cá, nhưng bạn cho rằng, chí ít là đối với mình, thời gian hiện có không đủ để làm việc đó.
Điều này, Böhm-Bawerk giải thích, là nguồn gốc của ý tưởng về lợi tức. Nói một cách đơn giản nhất, lợi tức phản ánh cách đánh giá thời gian của mọi người. Họ thích có 100 USD ngay bây giờ hay 104 USD trong năm sau? Lãi suất không phải cái gì đó có thể bị xoá bỏ hay bãi bỏ bằng cách ban hành quy định vì nó là một phần của bản chất của con người. Nó phản ánh sở thích tự nhiên của chúng ta là được thoả mãn ngay bây giờ, chứ không phải trong tương lai.
Cách đánh giá thời gian cũng có vai trò cực kì quan trọng đối với việc lựa chọn quy trình sản xuất - cụ thể, chúng ta sẵn sàng dùng bao nhiêu thời gian cho sản xuất. Nếu chúng ta quý trọng thời gian - thể hiện ở lãi suất cao - thì chúng ta sẽ thích quá trình sản xuất ngắn hơn. Chúng ta sẽ không muốn mất nhiều thời gian cho quá trình sản sản xuất, vì chúng ta muốn được thoả mãn ngay lập tức. Nếu chúng ta không đánh giá cao thời gian - thể hiện ở lãi suất thấp - thì quy trình sản xuất dài hơn vẫn đáp ứng được yêu cầu về tài chính. Nếu thời gian là không quan trọng, chúng ta có thể sử dụng quy trình phức tạp hơn, có thể có nhiều bước hơn, mất nhiều thời gian hơn - Böhm-Bawerk gọi là các quy trình sản xuất phức tạp hơn.
Cơ cấu vốn
Trên cơ sở nhận thức thấu triệt của Böhm-Bawerk về vốn và lãi suất, Mises và Hayek công nhận rằng sự kiện là các quy trình sản xuất hiện nay khá phức tạp và bao gồm nhiều bước cũng làm cho chúng trở thành dễ đổ vỡ. Sai lầm tại bất cứ vị trí nào trong dây chuyền sản xuất cũng đều có thể dẫn tới kết quả thảm khốc.
Người ta thường nói về “vốn” như thể đấy là một cái gì đó thuần nhất, nhưng trên thực tế, đấy chỉ đơn giản là một ý tưởng. Tương tự “kích thước” hay “trọng lượng”, nó không tự thân tồn tại. Nó chỉ tồn tại trong tư liệu sản xuất. Và sự pha trộn một cách chính xác tư liệu sản xuất được sử dụng trong nền kinh tế - các nhà kinh tế học Trường phái Áo gọi là cơ cấu vốn - là cực kì quan trọng.
Một quốc gia có thể sử dụng nhiều vốn, nhưng nếu họ tạo ra tư liệu sản xuất sai lầm, mà trên thực tế, không tạo ra được giá trị cho người tiêu dùng, thì tất cả những khoản chi tiêu đó đã bị lãng phí.
Điều này có giá trị đặc biệt quan trọng trong việc giải thích tính chất lặp đi lặp lại của các nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, những vụ bùng nổ và sụp đổ lặp đi lặp lại trong những nền kinh tế này. Hiện tượng này được người ta gọi là chu kì kinh doanh, đi cùng với chúng là nạn thất nghiệp và mất mát về tài chính.
 
Chương 9
Chu kì kinh doanh
• Các nhà kinh tế học Trường phái Áo tin rằng những vụ bùng nổ và sụp đổ của chu kì kinh doanh là do cơ cấu của nền sản xuất không trùng khớp với sở thích thực sự của người dân.
• Chu kì bắt đầu với việc cơ quan quản lí tiền tệ đưa ra lãi suất quá thấp. Lãi suất thấp khuyến khích các công ti vay và đầu tư vào nhà máy và thiết bị mới, thúc đẩy lĩnh vực kinh doanh.
• Tuy nhiên, lãi suất thấp lại không khuyến khích tiết kiệm và cuối cùng các ngân hàng phải hạn chế các khoản cho vay. Những khoản đầu tư từng có lời vì lãi suất thấp trở nên không có lời nữa. Phải loại bỏ một số quy trình sản xuất và nguồn vốn bị lãng phí.
Những thăng trầm mang tính chu kì trong nền kinh tế, chao đảo từ bùng nổ sang suy thoái, là cái từng làm cho các nhà kinh tế học bối rối trong một thời gian dài. Böhm-Bawerk đã cung cấp một số kiến thức hữu ích, nhưng Mises, trong tác phẩm Lí thuyết tiền tệ và tín dụng (Theory of Money and Credit), là người đầu tiên giải thích một cách chi tiết hiện tượng này và sau đó, trong những năm 1930, đã cùng với Hayek ở Viện Nghiên cứu Chu kì Kinh doanh (Áo) phát triển quan điểm vừa nói - công trình mà sau đó nhiều năm Hayek đã được trao giải Nobel.
Đối với các nhà kinh tế học
Trường phái Áo, chu kì kinh doanh thực chất là chu kì tín dụng, vì nó thường bắt
đầu với mức tín dụng quá cao do các ngân hàng tung ra - đặc biệt, Rothbard (người
tiếp tục phát triển công trình của Mises và Hayek) nói là do các ngân hàng
trung ương.
Họ làm việc này bằng cách giữ lãi suất ở mức thấp nhất có thể. Các ngân hàng trung ương là tay chơi lớn trên thị trường tài chính đến mức bằng cách thay đổi lãi suất mà họ cho các ngân hàng thương mại vay, họ có thể tạo được ảnh hưởng đối với lãi suất trong toàn bộ lĩnh vực ngân hàng và tài chính. Lãi suất thấp từ các ngân hàng khuyến khích mọi người vay mượn, bởi vì các khoản vay không còn đắt đỏ như trước - lãi phải trả ít hơn. Các hộ gia đình vay nhiều hơn để mua nhà mới, làm cho nhu cầu về nhà ở gia tăng và đẩy giá nhà lên, trong khi các doanh nhân thấy rằng tài trợ cho nhà máy mới và thiết bị mới đã rẻ hơn, và họ tin rằng các nhà máy và thiết bị này sẽ giúp họ đẩy mạnh sản xuất và gia tăng lợi nhuận cho họ.
Trên bề mặt, mọi thứ dường như là đang tiến triển. Thật không may, lãi suất thấp một cách giả tạo làm mất ổn định tương quan tế nhị giữa đầu tư vào tư liệu sản xuất và cách đánh giá về thời gian của người dân và sự bùng nổ dựa vào tín dụng thúc đẩy các doanh nhân đầu tư sai lầm. Khi sự bùng nổ chắc chắn phải chấm dứt, các khoản đầu tư bị mất, việc làm và vốn cũng bị mất theo.
Ngân hàng tạo ra tiền bằng cách nào
Chu kì này có mấy giai đoạn. Chu kì bắt đầu khi các ngân hàng gia tăng các khoản cho vay. Thường xảy ra là, khi ngân hàng trung ương giảm lãi suất cho vay, làm cho các khoản vay trở nên rẻ hơn và khuyến khích các ngân hàng khác vay và thế chấp nhiều hơn. Đây là sai lầm tai hại vì nó khuyến khích người ta vay nhiều hơn mặc dù đánh giá về thời gian của họ không thay đổi. Nhưng, sai lầm lại được nhân lên thông qua hoạt động ngân hàng bằng cách dự trữ theo tỉ lệ.
Hầu hết mọi người đều nghĩ tiền chỉ là những tờ giấy và đồng xu nằm trong túi và ví của mình. Nhưng một loại tiền khác, có lẽ bằng khoảng 30 hay 40 lần số tiền người ta giữ trong túi, là số tiền mà người ta gửi ở ngân hàng của mình.
Các ngân hàng cho khách hàng vay bằng cách gia tăng thấu chi (Cho vay thấu chi là tổ chức tín dụng chấp thuận bằng văn bản cho khách hàng chi vượt số tiền có trên tài khoản thanh toán của khách hàng - ND) hay cộng thêm vào tiền gửi của họ. Nếu ngân hàng cho một người hay một công ti vay 1.000 USD, thì ngân hàng tự ghi cho mình một tài sản mới - khách hàng phải trả 1.000 USD (cộng với lãi suất). Nhưng khoản đó được cân bằng bởi một trách nhiệm mới - số tiền 1.000 USD mà khách hàng hiện có trong tài khoản và có thể bị thu hồi bất cứ lúc nào. Vì vậy, sổ sách của ngân hàng vẫn nằm trong tình trạng cân bằng. Nhưng, bằng một nét bút, ngân hàng đã tạo ra khoản tiền mới - vì đã tạo ra một khoản tiền gửi mới, vì nói cho cùng, tiền gửi ngân hàng là tiền. Ngay cả nếu khách hàng rút và chi tiêu 1.000 USD để thanh toán cho nhà cung cấp thì đơn giản là số tiền đó được đưa vào tài khoản của các nhà cung cấp đó mà thôi.
Nhưng ngân hàng lấy đâu ra 1.000 USD để cho khách hàng của mình rút? Đáng chú ý là, đây chỉ là viết một mục vào bảng cân đối. Ngân hàng không cần phải có tiền mặt trong kho để đảm bảo cấp cho khách hàng khoản vay này. Tất nhiên, khi khách hàng tới và thực sự rút ra một phần hay toàn bộ khoản vay 1.000 USD đã được thỏa thuận bằng tiền mặt thì ngân hàng cần có tiền mặt để thanh toán: Nhưng lúc nào cũng có người gửi tiết kiệm tới để gửi tiền. Rõ ràng là, ngân hàng phải có đủ tiền mặt để đáp ứng dòng vốn ra vào hằng ngày. Ngoài ra, trên thực tế, ngân hàng có thể tạo ra tiền, như họ làm trong trường hợp vừa nói.
Các ngân hàng có thể tạo ra bao nhiêu tiền? Thật đáng kinh ngạc là, gần như vô giới hạn. Nhiều nước bắt buộc các ngân hàng của họ phải giữ bao nhiêu tiền trong kho, chính là để họ không cạn kiệt tiền mặt dùng cho các giao dịch hằng ngày và không gây ra hoảng loạn. Tuy nhiên, ở hầu hết các nước, khoản tiền dự trữ chỉ là 1 hoặc 2% số tiền gửi của họ. Vì vậy, miễn là có thể đáp ứng được nhu cầu tiền mặt hằng ngày của khách hàng, lúc đó cứ nhận được 1.000 USD tiền giấy và tiền xu của người gửi tiết kiệm, thì ngân hàng lại có thể cho vay - và do đó tạo ra thêm - 50.000 USD hay 100.000 USD khác.
Tất nhiên, nếu tất cả khách hàng đến trong cùng ngày và đòi rút hết tiền trong tài khoản tiết kiệm và những khoản vay bằng tiền mặt thì ngân hàng sẽ không có đủ tiền để trả cho họ. Một số nhà kinh tế học Trường phái Áo, như Rothbard, coi hoạt động ngân hàng bằng cách dự trữ theo tỉ lệ là hệ thống gian lận: Người gửi đưa tiền của họ vào ngân hàng để được giữ an toàn, nhưng các ngân hàng lại gây ra rủi ro bằng cách cho vay và sử dụng khoản tiền này để tạo ra nhiều tiền hơn. Nhưng, trong những giai đoạn bình thường, hiếm khi ngân hàng bỏ trốn và người gửi tiền chấp nhận rủi ro như thế để được trả lãi.
Điều làm cho tất cả các nhà kinh tế học Trường phái Áo lo ngại là mức độ mà hệ thống này khuếch trương sự thay đổi trong việc cung tiền. Tăng 1 USD trong cung tiền tạo điều kiện cho các ngân hàng tạo ra khoản vay mới là 50 hay 100 USD. Và nếu họ cho các ngân hàng khác vay thì, đến lượt mình, các ngân hàng này cũng có thể làm tương tự. “Bộ khuếch đại tiền” này hoạt động có nghĩa là những thay đổi nhỏ trong cung tiền có thể tạo ra ảnh hưởng vô cùng to lớn - và do đó, có thể nguy hiểm - lên hệ thống tài chính và do đó, có ảnh hưởng rất lớn và có thể nguy hiểm đối với nền kinh tế.
Những đồng tiền mới thúc đẩy kinh doanh như thế nào
Giả sử hệ thống ngân hàng hoạt động như thế một số năm mà không gặp trục trặc. Nếu lúc đó ngân hàng trung ương cắt giảm lãi suất, các khoản thế chấp và cho vay trở nên rẻ hơn và có thêm nhiều người tới các ngân hàng đề nghị được vay và thế chấp. Xin nói rằng các ngân hàng sẽ tăng các khoản cho vay, trong khi sử dụng phần lớn tiền gửi của họ để cung cấp các khoản vay mới. Sự gia tăng có thể là quá nhỏ, người gửi tiết kiệm không cần phải lo lắng, nhưng, như chúng ta đã thấy, phía sau nó là khoản tiền rất lớn vừa mới được tạo ra, và số tiền này tìm được đường đi vào hệ thống kinh tế.
Đối với những người làm kinh doanh, tất cả dường như không thể nào tin được. Chi phí vay mượn giảm, đồng thời khách hàng lại có nhiều tiền hơn. Các doanh nhân tính rằng bây giờ họ có thể đầu tư vào máy móc mới, phức tạp hơn, áp dụng quá trình sản xuất dài hơn và sau khi hoàn tất thì sẽ thu được khoản lợi nhuận kha khá. Vì vậy, họ bắt đầu mua đất đai, bắt đầu xây dựng nhà máy, đặt máy móc và thuê thêm công nhân mới.
Các doanh nhân khác cũng rút ra kết luận tương tự và cũng lao vào đầu tư. Tuy nhiên, cầu tăng làm cho giá đất, giá nhà và giá máy móc gia tăng. Và, khi giá cả tăng, nhiều nguồn tài nguyên hơn được đưa vào những lĩnh vực đó. Những khoản tiền đáng lẽ được chi để mua hàng tiêu dùng thì nay được đầu tư vào tư liệu sản xuất. Trong khi đó, một số doanh nhân thậm chí có thể vay thêm để có thể thanh toán tư liệu sản xuất đã lên giá, và thậm chí nhiều nguồn lực hơn được đưa vào lĩnh vực sản xuất tư liệu sản xuất.
Những người chủ đất và những
người có tư liệu sản xuất sẽ thấy rằng mình giàu lên. Công nhân của họ cũng như
công nhân được các doanh nghiệp mà họ cho thuê đất hay cung cấp tư liệu sản xuất
thuê cũng thấy đời sống được cải thiện. Lương tăng chỉ càng khuyến khích các
doanh nhân, càng thuyết phục họ rằng sẽ có rất nhiều người mua những thứ mà cuối
cùng họ sẽ làm ra. Vì vậy, họ tiếp tục sản xuất thêm và giai đoạn bùng nổ kéo
dài mãi ra.
Bây giờ các doanh nhân đã lún sâu vào những cam kết mới đến mức không thể nào rút ra được nữa. Họ đã đầu tư vào các nhà máy mới và những quy trình sản xuất phức tạp hơn và lâu hơn. Chi phí tiếp tục gia tăng, nhưng nếu rút ra thì họ sẽ bị lỗ. Tương tự người thầu xây dựng đã xây móng quá lớn và hết gạch, họ phải tiếp tục vay với hi vọng rằng họ có thể hoàn thành và cứu được dự án.
Thật không may là, bây giờ tất cả số tiền mới đã được tạo ra bắt đầu cạn kiệt. Các ngân hàng cho vay hết mức mà họ có thể cho vay. Trong khi đó, người dân không tiết kiệm nhiều hơn số tiền mà họ đã từng tiết kiệm trước đây vì đánh giá về thời gian của họ không thay đổi, đồng thời lãi suất cũng không khuyến khích họ gửi nhiều tiền vào ngân hàng. Do thiếu tiền mặt, các ngân hàng bắt đầu lo lắng về sự an toàn của các khoản tiền mà họ đã cho vay và bắt đầu hạn chế, thắt chặt các điều kiện cho vay, và có lẽ, thậm chí còn yêu cầu các khách hàng mà họ cảm thấy có rủi ro phải trả nợ. Các dự án tưởng là có lời khi các khoản vay còn rẻ hiện bị coi là quá lạc quan. Một số kế hoạch kinh doanh thất bại, công nhân bị sa thải. Chi tiêu và đầu tư giảm, còn thương mại thì rơi vào một vòng xoáy đi xuống.
Việc các ngân hàng quay trở lại với những biện pháp cho vay thận trọng hơn không gây ra khủng hoảng. Nó chỉ đơn giản là chỉ cho người ta rằng việc mở rộng tín dụng ban đầu là quá tham vọng và những khoản đầu tư ban đầu là sai lầm. Nó cũng chỉ ra quy mô của những khoản đầu tư sai lầm mà người ta đã thực hiện. Và những khoản đầu tư sai lầm dẫn đến kết quả là những người liên quan bị tổn thất thật sự. Không thể tiếp tục vay mượn ngày càng nhiều thêm, các công ti cạn sạch tiền. Họ phải bán tài sản với bất cứ giá nào - trên thị trường đang suy thoái. Các nhà máy đóng cửa, các dự án xây dựng phải tạm dừng, còn công nhân thì bị sa thải. Một số doanh nghiệp sẽ không trả được các khoản vay, còn các ngân hàng thì sẽ thắt chặt các điều khoản cho vay hơn nữa, làm cho các doanh nghiệp khác cũng bị phá sản. Ngay cả các công ti từng hành động một cách thận trọng trong suốt giai đoạn này cũng sẽ bị cuốn vào làn sóng của những tin tức xấu đang lan tràn từ những thất bại của những công ti khác.
Chu kì kinh doanh làm mất các nguồn lực thực như thế nào
Nếu vốn thực sự là đồng nhất, thì có lẽ sẽ cứu được phần lớn các khoản đầu tư và đem sử dụng cho những mục đích khác. Đáng buồn là, hầu hết các nhà máy và máy móc sản xuất không thể được sử dụng cho bất kì mục đích nào khác với mục đích ban đầu của chúng. Không thể sử dụng nhà máy sản xuất ô tô để sản xuất thiết bị điện tử, muốn sử dụng, ít nhất, cũng phải bỏ hết trang thiết bị sản xuất ô tô; máy in báo là cỗ máy lớn, không thể sử dụng cho bất kì mục đích nào khác, nếu tập đoàn báo chí sụp đổ. Sẽ phải thanh lí và có lẽ phải phá huỷ các nhà máy và thiết bị chuyên dụng. Công nhân có thể được đào tạo lại để làm những công việc khác, mặc dù phải mất thời gian và tiền bạc. Nhưng sự kiện vẫn là, vụ bùng nổ đã dẫn đến sụp đổ làm mất vốn và thất nghiệp thực sự.
Các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói, không có cách nào thoát khỏi cuộc khủng hoảng, ngoài việc cắt giảm đáng kể giá và tiền lương và đóng cửa các nhà máy và cho các doanh nghiệp phá sản. Những cố gắng nhằm trì hoãn quá trình điều chỉnh - các công đoàn chống lại việc sa thải hay các chính phủ tìm cách kích thích nền kinh tế bằng cách đẩy lãi suất xuống thấp hơn nữa - chỉ đơn giản là kéo dài những khoản đầu tư xấu và làm cho thiệt hại cuối cùng thậm chí còn xấu hơn. Vụ bùng nổ ban đầu do tín dụng tạo ra không phải là khởi đầu của kỉ nguyên thịnh vượng mới, mà nó dụ giới kinh doanh và những người vay vốn cá nhân đem những nguồn lực rất có giá trị phung phí vào các khoản đầu tư sai lầm. Không chính sách tiếp theo nào có thể thay đổi được sự kiện đó.
Các nhà kinh tế học Trường phái Áo nói rằng muốn ngăn chặn bùng nổ và sụp đổ, gây ra nạn thất nghiệp và sự lãng phí nguồn vốn mà chắc chắn nó sẽ gây ra thì phải tránh nó ngay từ đầu. Điều đó có nghĩa là các ngân hàng trung ương không nên tìm cách tránh mọi cuộc suy thoái và phục hồi kinh doanh bằng cách đẩy lãi suất xuống thấp đến mức không còn phản ánh cách đánh giá thời gian của người dân - vì đấy là khởi động chu kì. Chúng ta cần tìm hiểu cách thức kiếm tiền vững chắc hơn, vì lượng tiền tăng thêm đã cho các doanh nhân phương tiện và khuyến khích họ đầu tư quá nhiều vào những lĩnh vực sai lầm. Điều đó có nghĩa là phải theo dõi khả năng in tiền mới của chính phủ và khả năng thổi phồng lượng tiền đó của các ngân hàng và cung cấp nhiên liệu cho vụ bùng nổ kinh doanh sai lầm.
No comments:
Post a Comment