Trích tác phẩm Phân biệt thật giả (trang 232-243)
Vì
sao nước Mỹ thành công
Trường ý thức bẩm sinh
của nước Mỹ hỗ trợ khả năng sáng tạo, phát minh, giáo dục và đổi mới, và nó tưởng
thưởng cho những nỗ lực tự khởi xướng bằng những lời ngợi ca và thái độ hân
hoan. Việc phát hiện ra điện, dòng điện một chiều và xoay chiều và bóng đèn đã
thắp sáng toàn bộ thế giới, cũng như cung cấp nguồn năng lượng phổ cập và sẵn
có cho ngành công nghiệp và sản xuất ở mọi tầng thứ, từ máy móc khổng lồ đến lò
nướng bánh mì trong nhà bếp.
Như thể điện vẫn còn là
chưa đủ, tính sáng tạo của nước Mỹ còn làm ra điện thoại, điện báo, đài phát
thanh, ti vi, máy bay, chip máy tính, máy ghi âm Dictaphone, máy tính, toàn bộ
ngành công nghiệp điện tử, Internet, phần cứng và phần mềm máy tính, và danh
sách này kéo dài đến bất tận. Toàn bộ ngành công nghiệp hàng không thế giới xuất
phát từ chuyến bay ở Kittyhawk. Còn ngành công nghiệp giải trí trên toàn thế giới
xuất phát từ việc phát minh ra phim ảnh. Thêm vào đó là những khám phá quan trọng
về y học, dược phẩm, nghiên cứu vật liệu và một loạt các phát minh khoa học
mang lại lợi ích cho toàn thế giới.
Ngoài năng suất cực kỳ
cao như vừa nói còn có thêm hệ thống bán lẻ cùng với hệ thống cung cấp và giao
hàng được xây dựng rất cẩn thận, trong đó Walmart là tập đoàn lớn nhất thế giới
với hơn một triệu nhân viên. Doanh nghiệp Mỹ đang tiến tới bình đẳng giới, đây
không chỉ là một hiện tượng của nước Mỹ mà còn là quá trình chuyển dịch về mặt xã
hội ở những nước khác, chẳng hạn như Đan Mạch, Canada, v.v. (ATF, 2004).
Tầng hiệu chỉnh của hầu
hết các tập đoàn lớn trên thế giới (Ford, General Motors, v.v.) xấp xỉ với tầng
của các cơ quan của chính phủ Hoa Kỳ, chứng tỏ họ làm việc với tinh thần trách
nhiệm, hiệu quả, và tính chính trực theo lối thực dụng. (Jack Welch, cựu chủ tịch
General Motors, từng được tạp chí Fortune
vinh danh là CEO hàng đầu của Mỹ, một danh tiếng khó mà có được trong giới CEO vốn
toàn những người giàu năng lực và thành tích).
Góp mặt trong danh sách
những khám phá của nước Mỹ có điện lạnh, điều hòa không khí, lò vi sóng cùng
hàng trăm thiết bị, tàu hơi nước của Robert Fulton, động cơ hơi nước của
Watt/Evans, máy may của Howe, súng trường Winchester, súng lục ổ quay Smith
& Wesson, bốc hơi và chưng cất nhiều tầng (tinh chế đường), ngành X quang,
tàu cao tốc, thang máy Otis, thang cuốn, robot, điều khiển học, lưỡi dao cạo,
máy tách hạt bông, các tòa nhà chọc trời, đài FM, máy thu thanh đổi tần, may chụp
ảnh lấy liền, máy photocopy, máy tính kỹ thuật số, bóng bán dẫn, phần mềm, phần
cứng, thiết bị y tế (chụp cộng hưởng từ MRI và chụp cắt lớp vi tính CAT), chất
dẻo, và cuối cùng nhưng không kém phần quan trọng, năng lượng nguyên tử. Henry
Ford đã hoàn thiện dây chuyền lắp ráp và giới thiệu các nghiên cứu về thời
gian/chuyển động, dựa trên cơ sở này mà người ta đã phát triển các thiết bị an
toàn và khoa công thái học.
Cuộc đời của Ben
Franklin là ví dụ điển hình của truyền thống Mỹ. Ông là người có tài phát minh
(bếp Franklin, kính hai tròng, điện, cột thu lôi), tự học, nỗ lực hoàn thiện bản
thân (Poor Richard’s Almanac) và hào
phóng (ông thành lập Đại học Pennsylvania). Ông đã thể hiện tinh thần nghiệp chủ
(ông là chủ một doanh nghiệp in), tự do cá nhân, và vượt qua giai tầng xã hội
(từ nghèo khó trở thành giàu có, từ người lao động thành nhà ngoại giao quốc tế
và biểu tượng xã hội). Ông ủng hộ tất cả các tôn giáo và dạy rằng cách thờ phụng
Thiên Chúa tốt nhất là làm điều thiện cho mình và người khác. Ông cũng là minh
chứng sống của quá trình liên tục tự hoàn thiện, nó đã trở thành lối sống của
ông. Ông là người viết sách và nhà xuất bản, một chính trị gia và chính khách
hoàn hảo, góp phần vào quá trình xây dựng Hiến pháp Hoa Kỳ. Nhìn chung, ông là
hiện thân của tiềm năng và sự hiện thực hóa điều mà sau này trở thành “giấc mơ Mỹ”.
Tố chất sáng tạo và thiên
tài tương tự được thể hiện qua cuộc đời huyền thoại của Andrew Carnegie (điểm
hiệu chỉnh 490), người đã đi từ Scotland đến Mỹ chỉ với 25 xu trong túi. Ông đã
xây dựng ngành công nghiệp thép và sau đó thiết lập truyền thống làm từ thiện.
Ông thậm chí còn tìm cách ngăn chặn Thế chiến I bằng cách cung cấp cho Hoàng đế
Đức khối tài sản khổng lồ để ông ta không phát động chiến tranh, nhưng đáng buồn
là cố gắng của ông đã không thành công. Cả Franklin lẫn Carnegie đều thể hiện
tiềm năng của cốt lõi của nước Mỹ.
Chính khả năng sáng tạo
vô bờ bến này là “vốn” mà từ đó của cải tính bằng tiền tự động phát triển, cùng
với đó là hàng triệu việc làm và thịnh vượng gia tăng, tương tự như khi nước biển
dâng thì tất cả mọi người đều được nâng lên, vì nó thâm nhập cả khu vực công cộng
chứ không chỉ dừng ở sở hữu tư nhân. Nó thể hiện trong các cơ sở hạ tầng khổng
lồ, trong đó có các công ty cổ phần đa ngành, ngành giao thông vận tải và
thương mại khổng lồ hỗ trợ tất cả các hoạt động của chính phủ. Do đó, vốn trở
thành nguồn năng lượng to lớn thúc đẩy toàn bộ trường của xã hội, đến lượt mình,
xã hội thừa nhận và hỗ trợ giá trị của quyền sở hữu cá nhân và tư nhân. Đó
chính là điều mà nước Trung Quốc của Mao không có - nước này có điểm hiệu chỉnh
150 - và có số người chết đói lớn nhất (30 triệu người) mà thế giới từng chứng
kiến, điều này chứng tỏ sự thất bại hoàn toàn của chủ nghĩa Marx, chủ nghĩa tập
thể và triết lý xây dựng chủ nghĩa tập thế (Karl Marx có điểm hiệu chỉnh 130).
Tất cả các chính phủ đều hoạt động theo lối tư bản chủ nghĩa, vì tất cả các
chính phủ này đều phụ thuộc vào sự tồn tại và hoạt động của đồng vốn, dù người
ta thu được nó bằng chinh phục, tịch thu hay đánh thuế thì cũng thế mà thôi.
Xã hội kinh doanh tự do
tưởng thưởng cho những phát minh và sáng tạo của cá nhân. (Ở Hoa Kỳ có mười hai
triệu người tự kinh doanh). Mọi người đều có quyền tự do tạo ra ý tưởng mới,
xin cấp bằng sáng chế, sau đó thu hút vốn đầu tư mạo hiểm và các nhà đầu tư, ví
dụ như Microsoft. Một lợi ích to lớn nhưng chưa được công nhận của chủ nghĩa tư
bản là sự xuất hiện của một thiết chế rất “Mỹ”, đó là thiết chế của những người
làm từ thiện vĩ đại – họ đã trả lại cho dân chúng những lợi ích to lớn, như các
viện bảo tàng, công viên và phòng trưng bày nghệ thuật lớn, trường cao đẳng,
trường đại học, cung thiên văn, phòng thí nghiệm, và phòng hòa nhạc. Di sản của
Carnegie là các thư viện lớn trên khắp nước Mỹ cho phép mọi công dân truy cập
miễn phí thông tin của thế giới, những thông tin này hiện đang được chuyển vào
mạng thông tin toàn cầu. Các quỹ từ thiện lớn đã trở thành huyền thoại
(Rockefeller, Gates, Carnegie, Ford, Mellon, v.v.) và đã rót hàng tỷ đô la cho
xã hội.
Nền văn hóa tư bản chủ
nghĩa tạo ra hàng chục triệu việc làm và cơ hội tự kinh doanh; từ sau khi chấm
dứt cuộc Đại suy thoái đến nay việc làm chưa bao giờ trở thành vấn đề nghiêm trọng.
Tỷ lệ thất nghiệp chính thức là con số thống kê gây hiểu lầm, ở chỗ nó báo cáo
về những người nộp đơn xin thất nghiệp. Trong cuộc đời này, chưa bao giờ không
có cơ hội tự kinh doanh hoặc thậm chí là “việc làm”, chỉ là không có “công việc”
mà người ta muốn mà thôi. Trong khi các trang đầu của các tờ báo báo cáo về tỷ
lệ thất nghiệp, thì ở phía sau, trong hết trang này đến trang khác người ta quảng
cáo về các công việc và cơ hội chưa có người nhận, và trong hầu hết các cửa hàng
đều treo biển “Cần người” - những công việc này có thể không đáp ứng được tham
vọng, nhưng sẽ cung cấp cho người ta tiền, nếu họ cho rằng đấy là khoản thiếu hụt
quan trọng nhất. Ngược đời là, người ta lại đi làm trở lại khi đã tiêu hết tiền
bảo hiểm thất nghiệp. Những người thực sự thất nghiệp dựa vào mạng lưới an sinh,
vốn cung cấp nhiều chương trình hỗ trợ và giáo dục. Trung bình, tỷ lệ thất nghiệp
ở Hoa Kỳ thấp hơn từ 40 đến 50% so với các nước xã hội chủ nghĩa. Động cơ kinh
tế khổng lồ của hệ thống kinh doanh tự do tư bản chủ nghĩa tạo ra một nền tảng
kinh tế đáng kinh ngạc (1,5 nghìn tỷ đô la mỗi năm) cho phép Mỹ trở thành quốc
gia từ thiện lớn nhất thế giới.
Chỉ cần nhìn lướt qua tổng
giá trị tiền vốn của chính phủ liên bang cũng thấy ngay rằng khoản “nợ quốc
gia” mà người ta vẫn suy đoán là một nhầm lẫn và một con số thống kê dễ gây hiểu
lầm. Tài sản hiện nay của chính phủ là 9 triệu tỷ đô la Mỹ, vì chính phủ nắm
trong tay hàng triệu mẫu đất cực kỳ có giá trị, trong đó có tiềm năng dầu mỏ, gỗ,
khoáng sản, v.v. Ngoài ra còn có khoản tài sản cố định khổng lồ, nếu xem xét tất
cả các quyền sở hữu - tài sản của quân đội, tất cả các tòa nhà chính phủ, đường
cao tốc, nhà kho và quyền hợp pháp để đi qua khoảng đất thuộc sở hữu của người
khác. Khái niệm một món nợ quốc gia có thể so sánh với việc một triệu phú sử dụng
một phần nhỏ tài sản của mình để mua một công ty mới với khoản trả trước là
50%, còn số dư thì phải trả theo môt lịch trình đã định. Bây giờ ông ta nói rằng
mình đang “mắc nợ” vì có các khoản thanh toán trên số dư mà ông ta đã vay. Một
triệu phú như vậy thực sự không thể bị coi là “mắc nợ” mà chỉ đang có các khoản
thanh toán mà ông ta có thể dễ dàng trả hết bằng cách bán tài sản.
Tiền ra nhanh hơn tiền
vào, như “thâm hụt ngân sách” (Greenspan, 2004) chẳng hạn, không có nghĩa là mắc
nợ. Nợ thực tế tức là một người nợ nhiều hơn giá trị tài sản mà họ có và do đó
có giá trị ròng âm - khó có thể nói rằng đây là thực trạng của chính phủ liên
bang. Có những bang, đặc biệt là các bang miền tây, mà chính phủ liên bang thực
sự sở hữu 85% đất đai, cùng với nước, gỗ và quyền khai thác mỏ. Khó có thể nói
là chính phủ các bang đó “mắc nợ” khi vấn đề thực sự của họ là đổ tiền dành vào
một loạt các chương trình, mà nhiều trong số đó có giá trị đáng ngờ và phục vụ
cho các ý thức hệ chính trị chứ không phải là nhu cầu thực tế của công chúng.
Khi xã hội được công nghiệp hóa và chuyển từ
văn hóa nông nghiệp sang văn hóa thương mại, thì sẽ có một độ trễ về thời gian.
Quá trình chuyển đổi này không chỉ xảy ra ở Mỹ mà còn ở tất cả các nước đang
phát triển khác. Trong thời kỳ này, trẻ em và phụ nữ làm việc tại các nhà máy với
đồng lương thấp. Các ngành công nghiệp mới nổi ban đầu dựa vào mức lương thấp,
thời gian làm việc kéo dài, không xét đến phúc lợi, điều kiện làm việc căng thẳng.
Tuy nhiên, hai mươi năm sau, trong một xã hội về cơ bản là chính trực, toàn bộ
bức tranh đã thay đổi và vốn tích lũy giờ đây được phân phối thông qua điều kiện
làm việc tốt hơn và tiền lương cao hơn, đây là những sản phẩm phụ của quá trình
phát triển kinh tế.
Năm 1914, Henry Ford đã
làm cho giới lao động kinh ngạc khi ông trả cho họ 5 đô la một ngày, cuối cùng
con số này trở thành 5 đô la một giờ và thu hút người lao động từ khắp nơi trên
cả nước. Lúc đó, mức lương trung bình cho lao động phổ thông là 35 xu một giờ.
Mặt khác, Ford cấm người làm kể chuyện cười hay cười đùa ở nơi làm việc, và họ phải
được quản đốc cho phép thì mới được đi vệ sinh dưới sự giám sát về thời gian.
Thay
đổi trong lĩnh vực văn hóa
Trước Thế chiến II, 50%
kinh tế Mỹ là nông nghiệp. Một nửa người Mỹ sống trong các trang trại, và công
việc được chia đều cho đàn ông và phụ nữ, và ở trong nước phụ nữ được coi trọng.
Do tôn trọng phụ nữ mà đàn ông không được nói tục trước mặt họ, phải đứng lên
khi có người phụ nữ bước vào phòng và phải mở cửa cho phái nữ ra vào trước.
Nhìn chung, phụ nữ, đặc biệt là các bà mẹ, được tôn vinh và tôn kính và có quyền
đối với các khía cạnh trong đời sống gia đình, trong khi đàn ông chăm sóc cây
trồng, vật nuôi và thiết bị. Người vợ không phải là người tìm việc trong lực lượng
lao động thương mại, trừ khi họ ngẫu nhiên làm giáo viên hoặc y tá. Đàn ông có
trách nhiệm xã hội là phải hỗ trợ phụ nữ. Đối với một người vợ, “phải đi làm”
là ô nhục, còn người chồng sẽ “chết vì xấu hổ” trước những bằng chứng công khai
về việc anh ta không cung cấp đầy đủ cho gia đình. Mọi người đều cảm thấy buồn
cho một người vợ “phải đi làm”.
Nói chung, các lĩnh vực
quan tâm được chia một cách tương đối theo giới. Phụ nữ ít quan tâm đến kinh
doanh hoặc chính trị. Đàn ông đi vào phòng khác sau bữa tối để thảo luận về những
chủ đề như vậy. Cho tới Thế chiến II, phụ nữ ít làm công việc được trả lương,
lúc đó những người phụ nữ làm việc trong nhà máy hay xưởng đóng tàu được tôn
vinh như một người có thành tích đặc biệt.
Khi văn hóa thay đổi, ngày
càng có nhiều phụ nữ làm công ăn lương hơn và định kiến mà họ phải vượt qua
chủ yếu dựa trên những định kiến theo thói quen, chứ không phải do cạnh tranh
kinh tế hay thành kiến. Thành thật mà nói, trước đó chưa có ai thấy người phụ nữ
nào là thợ ống nước, và không có phụ nữ nào là CEO của các tập đoàn khổng lồ, bởi
vì họ không có mặt trong nền văn hóa đó chứ không phải là bị cấm làm việc đó (tức
là hiệu ứng của trường).
Lợi ích đối với nền
kinh tế nói chung và nền tảng tư bản của nó tăng lên nhanh chóng khi phụ nữ
ngày càng tham gia nhiều hơn. Giờ đây, họ đã phát triển để trở thành CEO của
các tập đoàn rất lớn và giữ cả các chức vụ cao trong chính phủ. Trong các lĩnh
vực khác, phụ nữ đã trở thành những tỷ phú huyền thoại chỉ nhờ vào sáng kiến
tiềm tàng của chính họ. Họ cũng đã mang một nguồn năng lượng mới vào giới
truyền thông, năng lượng của tình yêu và sự quan tâm. Nhân vật được ngưỡng mộ
nhất trên truyền hình hiện nay là người phụ nữ đang điều hành chương trình truyền
hình thành công nhất, có điểm hiệu chỉnh cao nhất trong tất cả các chương trình
trên các phương tiện truyền thông - trên 500 điểm. Bà và các nữ CEO nổi bật
khác xuất hiện đều đặn trên trang bìa của Tạp chí Fortune, vốn trước đây chỉ dành cho nam giới. Năm 2003, các tập
đoàn do các nữ CEO lãnh đạo hoạt động tốt hơn các tập đoàn do nam giới lãnh đạo.
Tất cả những điều vừa
nói nhằm chứng minh rằng nước Mỹ không chỉ là vùng đất của cơ hội mà quan trọng
hơn, nó còn là xã hội linh hoạt, tự điều chỉnh dựa trên cảm giác cân bằng và
công bằng, trong đó, những bất công của sự bất bình đẳng cần được sửa chữa và
phản hồi trên tinh thần đồng cảm. Hầu như không có tổ chức nào mà không có người
ủng hộ. Như vậy là, thực tại xã hội của Mỹ vốn dĩ là chính trực, đây là hệ quả
của trường gần đó, tầng của trường đó đã được xác định bởi Hiến pháp với điểm
hiệu chỉnh trên 700. Do đó, trường có tính chính trực cao tạo được ảnh hưởng
không nhìn thấy được ở chỗ nó tự bộc lộ khi có bất công và không chính trực, chẳng
khác gì chiếc áo sơ mi sạch sẽ tiết lộ vết bẩn.
Người ta tự hỏi vì sao
nước Mỹ lại là nơi hội tụ của nhiều phẩm chất đáng chú ý – về mặt vật chất, tâm
lý và cảm hứng - như vậy. Các thiên tài sáng tạo đã khai sinh ra phần lớn các
ngành công nghiệp và các phát minh tuyệt vời, góp phần củng cố nền kinh tế hiện
nay. Xã hội có năng suất cao nhất trong lịch sử đã xuất hiện và sinh ra một xã
hội tự do, tự điều chỉnh trên nền tảng của chính quyền có điểm hiệu chỉnh cao
nhất có thể. Tất cả đều xuất hiện trong một vùng đất với không gian rộng lớn, vẻ
đẹp ngoạn mục bất tận và chứa trong lòng nó số lượng của cải vô cùng vô tận -
vàng, bạc, đồng, bạch kim, kim loại quý hiếm, gỗ, động vật hoang dã, và quan trọng
nhất là sắt, thành phần cơ bản của thép.
Một lần nữa, dường như
tình cờ, việc sử dụng thép trong xây dựng và công nghệ thêm phần dễ dàng vì nước
Mỹ có một tài sản khác, đấy là những công nhân người Mỹ bản địa không sợ độ
cao. Do đó, những công trình kiến trúc và những cây cầu vĩ đại đã ra đời, cùng
với đó là tòa nhà mang tính biểu tượng Empire State – một kết quả của cảm hứng
sáng tạo. Đây là thành quả của liên minh giữa thiên tài sáng tạo, kỹ năng và sức
mạnh của nền kinh tế có sẵn vốn lưu động từ thu nhập và tiền tiết kiệm của người
lao động Mỹ, không có những thứ đó thì không có đường sắt, hàng không, vỉa hè,
cửa hàng, ô tô, thuốc chữa bệnh, ngân sách liên bang, chương trình chăm sóc sức
khỏe, phúc lợi, hay hệ thống điện thoại - trên thực tế, thậm chí còn không có cả
nhà vệ sinh công cộng.
Từ phân tích tổng thể
bên trên và qua xem xét lại lịch sử cũng như điểm hiệu chỉnh các tầng chính trực
của các yếu tố của nó, có thể dễ dàng nhận xét rằng trong tất cả các lĩnh vực
then chốt và quan trọng của đời sống con người, nước Mỹ đã lập được những thành
tích phi thường và tính chính trực toàn diện của nó thật đáng được tôn trọng.
Trong khi công dân ở đất nước tự do này được tự do hay thậm chí là được khuyến
khích chỉ trích đất nước mình (những người bất đồng chính kiến không thiên vị
có điểm hiệu chỉnh từ 210 tới 330), vì người ta xem đó như là một phần của quá
trình chính trị và tiến hóa xã hội, thì ngược lại, những kẻ cực đoan chính trị
có điểm hiệu chỉnh 160. (Lưu ý rằng chỉ một mình nước Mỹ đã đang cấp hàng triệu
đô la và thuốc men để chinh phục căn bệnh thế kỷ AIDS ở châu Phi xa xôi). Một
ví dụ về sự xuyên tạc theo lối tiêu cực do những người phản đối việc thuê ngoài
vì cho đó là do “lòng tham” hay do “tổng thống” (tuyên bố này có điểm hiệu chỉnh
là “sai”), trong khi nó thực ra là hệ quả của Internet và nền kinh tế quốc tế (tuyên
bố này có điểm hiệu chỉnh là “đúng”). Hầu hết các quốc gia, thành phố, bang, địa
phương và tập đoàn hiện nay đều thuê ngoài ở một số công đoạn, đấy là do nhu cầu
về kinh tế. Ngay cả Mexico cũng gia công cho Trung Quốc (Brezosky, 2005;
Kniazkov, 2005).
Trái ngược với những
người lên án quê hương bản quán của mình, nước Mỹ chào đón những người nhập cư
đánh giá cao vùng đất của cơ hội này. Ấn tượng nhất là sự trung thực và chính
trực đáng kinh ngạc - đấy là mô tả về nước Mỹ của một người nhập cư thông thạo,
có tài. Được sự cho phép của tác giả, nó đã được tóm gọn trong một bài xã luận (Devji,
2004) nhan đề “Mười đặc điểm cao quý của người Mỹ” (điểm hiệu chỉnh 470). Xin
tóm tắt như sau:
Tôi là người Mỹ. Tôi
thích là người Mỹ! Tất cả những gì đẹp đẽ, công bình và niềm vui trong tôi đều
được nâng cao và khẳng định khi là người Mỹ. Mười đặc điểm đánh dấu chúng ta là
một con người:
1.
SÙNG ĐẠO: Hầu như tất cả chúng ta đều công nhận rằng có một sức mạnh cao
hơn chúng ta đang lèo lái số phận xoay vần của con người; người Mỹ sinh ra ở
đây cầu nguyện “Thần linh Vĩ đại” và bằng trái tim tôn kính họ gắn lời cầu nguyện
ấy với mặt đất và bầu trời thiêng liêng của Hoa Kỳ.
2. LÒNG
KHOAN DUNG: Những Kitô hữu châu Âu định cư trên vùng đất này và lập ra hiến
pháp của nó. Sau đó, họ đã mở rộng vòng tay và chào đón mọi người từ những khu
vực khác của thế giới. Giờ đây, các nhà thờ Hồi giáo, giáo đường Do Thái, và đền
thờ mọc lên khắp nơi. Ở đây, người theo đạo Hồi có thể thờ phượng tự do hơn là ở
hầu hết các quốc gia Hồi giáo. Người theo đạo Sikh mặc y phục của mình, còn người
Do Thái thì đội mũ truyền thống của họ.
3. TẦM
NHÌN: Mặc dù chúng ta là quốc gia trên đất liền đang tận hưởng những thành
công về vật chất của mình, nhưng chúng ta cũng là dân tộc nhìn xa trông rộng.
Chúng ta dám mơ những giấc mơ có thể không xảy ra. Chúng ta bay lên vũ trụ để
tìm kiếm các vì sao. Chúng ta hạ cánh xuống những hành tinh không hề lên tiếng
suốt hàng tỷ năm. Trên trái đất, tầm nhìn của chúng ta trong nghệ thuật chữa
lành sẽ làm cho người què đi được, còn người mù thì nhìn thấy được, theo đúng
nghĩa đen của những từ này.
4. TRIỂN
VỌNG: Khả năng làm việc chăm chỉ một cách vui vẻ của người Mỹ là yếu tố tạo
nên của cải của đất nước này. Không gì có thể so sánh với đạo đức làm việc của
chúng ta. Chúng ta là đất nước giàu có nhất trên thế giới, nhưng con cái của
chúng ta bắt đầu trông trẻ, đóng gói hàng tạp hóa và cắt cỏ ngay khi chúng còn
ngồi trên ghế nhà trường.
5. HÀO
PHÓNG: Có lẽ chưa có nước nào trên trái đất mà chưa được hưởng sự hào phóng
của người Mỹ. Chúng ta dùng trái tim từ bi để phản ứng trước các vụ động đất,
lũ lụt và nạn đói. Chúng ta gửi tiền, thuốc men, quần áo và những lời cầu nguyện
tới các nạn nhân thuộc mọi màu da và tín ngưỡng, và thậm chí tới cả những “kẻ
thù” của chúng ta. Chúng ta biết rằng mình chỉ là người trông coi của cải, chứ
không phải chủ sở hữu của nó.
6. DẺO
DAI: Người Mỹ có một khả năng kỳ lạ trong việc vượt qua nghịch cảnh - tai nạn,
phá sản và ly hôn. Họ phục hồi cơ thể, xây dựng lại doanh nghiệp và đời sống của
mình. Họ không náu mình trong góc tối; họ chiến đấu.
7. DŨNG
CẢM: Một đứa trẻ bốn tuổi bên cạnh nhà tôi đội mũ bảo hiểm, phóng xe dành
cho trẻ em, còn các bà dì của tôi ở Ấn Độ vẫn giữ chặt đứa con đã 14 tuổi của họ
mà bảo bọc nó! Người Mỹ dường như sinh ra đã có lòng can đảm vượt trội. Dũng cảm
dường như đã ăn sâu vào tâm hồn chúng ta. Chúng ta dạy cho thế giới ý nghĩa của
từ này bằng tinh thần dám nghĩ dám làm và thành tích sáng chói của chúng ta.
8. HÀI
HƯỚC: Chúng ta yêu tiếng cười và cuộc sống. Ở nước ngoài, bạn có thể nói chuyện
với một người Mỹ vì anh ta thường là người có nụ cười tươi nhất, đôi khi có giọng
nói và tiếng cười to nhất, và là người dễ gần nhất. Một người Mỹ sẽ lấp đầy một
căn phòng với thiện chí dễ lây lan của mình và sẽ không coi ai là người lạ.
9. TỰ
NHÌN VÀO BÊN TRONG: Giữ địa vị có một không hai trên thế giới như vậy,
chúng ta có thể thực sự trở thành những kẻ kiêu ngạo và không thèm quan tâm tới
ý kiến của người khác. Nhưng chúng ta giống như một đứa trẻ, cần được người ta
chấp thuận. Chúng ta là những người tự nhìn vào bên trong chính mình, chúng ta
mổ xẻ những hành động và ý nghĩ của mình, chúng ta thành lập các ủy ban, và
chúng ta thảo luận về những hành động và suy nghĩ của mình trên báo chí, truyền
hình và trong các cuộc họp ở tòa thị chính.
10. NGỌT
NGÀO: Đất nước, cũng như con người, sẽ trở nên khô cằn và vô vị nếu tâm hồn
của những người sống trong vùng đất đó không còn ngọt ngào nữa. Thượng đế đã
ban tặng cho người Mỹ một tâm hồn ngọt ngào hiếm có.
Vì những phẩm chất tích cực của mình, nước Mỹ thu hút được hàng triệu người nhập cư từ khắp nơi trên thế giới, như nước này đã từng làm trong suốt nhiều thế kỷ. Mặc dù mô tả của Devji chỉ nói về Hoa Kỳ, nhưng khả năng nhìn thấy những mặt tích cực của bà cũng phản ánh những hiện tượng đập ngay vào mắt du khách hoặc người nhập cư khi họ đến các quốc gia của tự do và cơ hội khác. Các tuyên bố của bà (điểm hiệu chỉnh 470) được đưa vào tác phẩm này để phản bác quan điểm “căm thù nước Mỹ” hiện nay - tất cả đều có điểm hiệu chỉnh dưới 200. Trong khi các nước khác, chẳng hạn như Canada, có điểm hiệu chỉnh cao, họ không phải chịu những lời gièm pha được phối hợp từ cả bên trong lẫn bên ngoài như vậy. Những người phê phán tấn công các chính sách chứ không tấn công đất nước của họ, tấn công đất nước một cách ác ý là vấn đề nhân cách chứ không phải chính trị. (“Cắn chính bàn tay đang nuôi mình” có điểm hiệu chỉnh 160, người nào làm như vậy chứng tỏ họ đã mất liên hệ với thực tại).
No comments:
Post a Comment