GEORGE ORWELL
Nhiều năm đã trôi qua. Xuân đi, đông lại, cuộc đời loài vật như bóng câu qua cửa sổ. Chỉ còn Benjamin, Bà Mập, con quạ Moses và một vài con lợn là còn nhớ được "ngày xưa", khi chưa Khởi Nghĩa.
Muriel đã chết. Bluebell, Jessie và Pincher cũng không còn. Ông Jones cũng chết rồi, chết trong trại tế bần dành cho người nghiện. Không ai nhắc đến Tuyết Tròn nữa. Chỉ có vài con vật còn nhớ Chiến Sĩ. Bà Mập đã thành một con ngựa già béo phị, chân chậm, mắt mờ. Nó đã quá tuổi hưu hai năm, nhưng thực ra, đã có con nào được hưu trí đâu. Không còn ai nhắc đến chuyện ngăn một mảnh đất cho những con già cả nữa. Napoleon đã thành một con lợn đực to sụ, phải nặng tạ rưỡi là ít. Chỉ Điểm cũng béo lắm, mắt híp lại, gần như không trông thấy gì. Chỉ có Benjamin là vẫn như xưa, tuy râu có trắng ra và sau khi Chiến Sĩ mất thì càng tỏ ra lầm lì, ít nói hơn.
Trại Súc Vật có thêm nhiều thành viên mới, tất nhiên là không nhiều như chúng nghĩ lúc đầu. Một số con được sinh ra ngay tại đây, đối với chúng, cuộc Khởi Nghĩa chỉ là một truyền thống mù mờ, được truyền khẩu cho nhau. Một số được mua từ nơi khác về, những con này chưa từng nghe ai nói chuyện đó trước khi đến đây. Ngoài Bà Mập, trại còn có thêm ba con ngựa nữa. Đấy là những con to, khỏe, chăm làm, tốt bụng nhưng ngu lắm. Không con nào thuộc quá chữ B. Chúng tin tưởng tuyệt đối vào Súc Sinh Kinh và những câu chuyện về cuộc Khởi Nghĩa, đặc biệt là những chuyện do Bà Mập, mà chúng coi như mẹ, kể lại; nhưng có vẻ như chúng cũng chẳng hiểu mô tê gì.
Trang trại được tổ chức tốt và ngày một phồn vinh hơn; chúng còn mở rộng thêm bằng cách mua của Pilkington hai khu đất nữa. Cối xay gió đã hoàn thành, chúng mua được cả máy đập lúa, máy nâng hạ và còn xây được thêm nhiều toà nhà. Whymper cũng mua được cho mình một cỗ xe nhỏ. Chúng không lắp máy phát điện lên cối xay gió mà dùng nó để xay xát, nhờ thế chúng kiếm được khối tiền. Chúng lại đang xây một cối xay gió nữa, sẽ lắp máy phát điện ở đấy, chúng bảo thế. Nhưng những thứ xa xỉ như đèn điện, nước nóng, tuần làm việc ba ngày mà chúng từng mơ mộng thời còn Tuyết Tròn thì không được nhắc đến nữa. Napoleon từng tuyên bố rằng những tư tưởng đại loại như vậy là trái hoàn toàn với tinh thần của Súc Sinh Kinh. Hạnh phúc chân chính, nó bảo, là lao động hăng say và sống đạm bạc, tiết kiệm.
Trang trại giàu có thêm, nhưng ngoại trừ lũ lợn và chó ra, đời sống của các con khác thì vẫn như xưa. Cũng có thể một phần là do có nhiều lợn và chó quá. Bọn này cũng làm việc, dĩ nhiên là theo cách của mình. Chỉ Điểm giải thích không mệt mỏi rằng tổ chức và kiểm tra công tác của trại là những việc phải làm thường xuyên, liên tục. Mà những giống khác đâu có đảm đương được, việc này cần nhiều trí thông minh lắm. Thí dụ, Chỉ Điểm bảo rằng lũ lợn mất rất nhiều công sức vào việc soạn những cái gọi là "tài liệu", "dữ liệu", "báo cáo", "biên bản", "ghi nhớ". Đấy là những tờ giấy to, viết đầy chữ và sau khi viết xong thì đem vào lò đốt. Nhờ thế mà trang trại mới được phồn vinh như ngày nay đấy, Chỉ Điểm thường nói như vậy. Dù sao mặc lòng, những thứ ấy chẳng thể làm lũ chó, lợn ấy no được, mà chúng phàm ăn lắm.
Cuộc sống của những con khác thì vẫn như xưa. Ngày chúng thường bị đói, đêm chúng ngủ trên ổ rơm, nước thì uống ngay ở dưới ao, làm việc ngoài đồng trống, mùa đông thì mất ngủ vì rét, mùa hè thì khổ vì ruồi. Thỉnh thoảng những con có tuổi cố nhớ lại xem nay đời sống của chúng có khá hơn ngay sau Khởi Nghĩa, khi chúng vừa đuổi lão Jones đi, hay không. Nhưng chúng không nhớ nổi. Không có gì cho chúng so sánh: trong đầu chúng chỉ có mỗi những số liệu của Chỉ Điểm, những con số luôn luôn chứng tỏ rằng mọi thứ đều được cải thiện, đều tốt thêm một bước mỗi ngày. Thôi thì đành vậy vả lại chúng cũng chẳng có nhiều thời gian để mà suy nghĩ lung tung. Chỉ có Benjamin già nua là khẳng định rằng nó nhớ hết, nhớ đến từng chi tiết mọi việc đã qua và biết rõ rằng chúng chưa bao giờ khổ hơn cũng chẳng bao giờ được sướng hơn, vẫn là đói, là bán mặt cho đất bán lưng cho trời, là bị loè bịp; qui luật cuộc đời vốn là như thế, nó thường bảo như vậy.
Dù sao chúng vẫn cứ hi vọng. Hơn thế nữa, chúng còn luôn tự hào được là công dân của Trại Súc Vật. Trong nước này, mà là nước Anh hẳn hoi đấy nhé, đây là trang trại duy nhất của súc vật và do súc vật quản lí! Tất cả mọi con vật, từ những con nhỏ nhất cho đến những con mới được mua từ cách xa cả chục cây số về, đều tự hào như thế. Nhất là khi chúng nghe thấy tiếng súng nổ, khi trông thấy lá cờ xanh tung bay là tim chúng lại đập rộn rã, khi ấy, dù đang nói chuyện gì chúng cũng quay lại đề tài về những năm tháng hào hùng, về việc lật đổ lão Jones, về việc thiết lập Bảy Điều Răn và về những trận chiến đấu oanh liệt chống lũ người xâm lược. Chúng cũng không quên nhắc nhở nhau những kì vọng thuở ban đầu. Chúng tin rằng lời tiên tri của Thủ Lĩnh già về ngày thành lập Nước Cộng Hòa Súc Vật trên toàn lãnh thổ Anh quốc, ngày con người bị tống khứ khỏi sứ sở này nhất định sẽ tới. Ước mơ của chúng sẽ thành hiện thực, nhất định ngày đó sẽ tới, dù còn lâu, dù rằng tất cả những con đang sống hiện nay sẽ không được chứng kiến, nhưng ngày đó nhất định sẽ tới. Chúng cũng không quên bài "Súc Sinh Anh quốc", con nào cũng biết hát bài này, nhưng chúng chỉ dám hát thầm với nhau mà thôi. Dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, dù không phải tất cả ước mơ của chúng đều được thực hiện, nhưng trong thâm tâm chúng biết rằng chúng là những con vật đặc biệt. Dù chúng chưa được no, nhưng chúng không phải làm để nuôi bọn người tàn độc; dù chúng còn phải lao động vất vả, nhưng đấy là chúng làm cho chính mình. Không con nào đi hai chân, không còn quan hệ chủ tớ. Tất cả đều bình đẳng.
Một hôm, đấy là đầu mùa hạ, Chỉ Điểm bỗng ra lệnh cho lũ cừu đi theo nó ra cánh đồng bỏ hoang bên ngoài trại, nơi có cả một rừng bạch dương non. Lũ cừu ở đó cả ngày, tha hồ nhai lá, dĩ nhiên là dưới sự chỉ đạo của Chỉ Điểm. Tối hôm đó Chỉ Điểm quay lại trang trại một mình, hôm đó thời tiết tốt nên nó bảo lũ cừu ngủ ngay ngoài đồng cho mát. Chúng ở lại đó suốt một tuần liền. Ngày nào Chỉ Điểm cũng ra với lũ cừu. Theo như nó nói thì nó đang dạy lũ cừu một bài hát mới, mà yên tĩnh thì học mới mau "vào".
Một chiều, hôm ấy lũ cừu đã học xong và trở về rồi, trong khi cả bọn đang quay về sau một ngày lao động thì chúng bỗng nghe thấy tiếng ngựa kêu thất thanh từ phía trại vọng lại. Quá hỏang sợ, tất cả lập tức đứng như trời trồng. Đấy là tiếng kêu của Bà Mập. Nó lại kêu lên lần nữa, tất cả lập tức phóng thật nhanh vào sân trại để xem có chuyện gì. Và chúng nhìn thấy chính cái điều đã làm Bà Mập hoảng loạn.
Đấy là một con lợn đang bước đi bằng hai chân sau.
Vâng, chính là Chỉ Điểm đang đi. Có vẻ vụng về, dĩ nhiên rồi, một phần vì chưa quen, một phần vì quá nặng, nhưng nó vẫn giữ được thăng bằng và đi từ bên này sang tận bên kia sân. Một lúc sau thì từ cửa chính ngôi nhà cả đàn lợn bước ra, tất cả, không trừ con nào, đều đi bằng hai chân sau. Một số con bước đi một cách tự tin, một số con còn lảo đảo, giá có cái ba toong thì vững hơn, nhưng tất cả đều đi một vòng quanh sân mà không con nào bị ngã. Cuối cùng là tiếng chó sủa dữ dội, tiếng gà gáy vang rền và Napoleon bước ra, lưng thẳng tắp, dáng oai vệ, nó nhìn khắp lượt, xung quanh tíu tít bày cừu.
Chân trước nó cầm một cái roi to.
Xung quanh lặng ngắt như tờ. Ngạc nhiên pha lẫn hoảng sợ, lũ súc vật tụ vào một góc để nhìn đàn lợn nối nhau đi quanh sân. Thế giới đảo điên hết rồi sao? Phút hoảng loạn ban đầu rồi cũng qua và dù có sợ bầy chó, dù bao năm đã quen không dám phàn nàn, không dám phản đối, lần này chắc chắn chúng sẽ lên tiếng phản đối. Nhưng đúng lúc đó, như có hiệu lệnh, bọn cừu đồng thanh gào lên:
"Bốn chân tốt, hai chân tốt hơn! Bốn chân tốt, hai chân tốt hơn! Bốn chân tốt, hai chân tốt hơn!"
Chúng tụng như thế năm phút liền, không ngưng nghỉ. Khi lũ cừu im thì đàn lợn đã vào hết trong nhà rồi, có phản đối cũng chẳng ai nghe.
Benjamin cảm thấy như có con nào đang lấy mũi cọ vào vai mình. Nó quay đầu lại. Hoá ra là Bà Mập. Đôi mắt đã mờ của nó trông càng buồn hơn lúc nào hết. Nó khẽ ngoạm vào bờm của Benjamin và kéo ra phía đầu hồi của nhà kho lớn. Chúng đứng đó, yên lặng ngắm những dòng chữ màu trắng trên bức tường sơn hắc ín.
"Tôi chẳng còn trông thấy gì cả - Cuối cùng Bà Mập lên tiếng - Ngay khi còn trẻ tôi cũng có đọc được chữ nào đâu. Nhưng tôi thấy hình như bức tường trông khác lắm. Bảy Điều Răn vẫn thế chứ, anh Benjamin?"
Đây là lần đầu tiên Benjamin từ bỏ thói quen cố hữu của nó và khẽ đọc cho Bà Mập nghe. Trên bức tường chỉ còn ghi một Điều Răn duy nhất như sau:
MỌI CON VẬT SINH RA ĐỀU BÌNH ĐẲNG, NHƯNG CÓ MỘT SỐ CON BÌNH ĐẲNG HƠN NHỮNG CON KHÁC.
Sau đó thì ngay cả việc những con lợn đốc công mang theo roi ra đồng cũng không làm chúng ngạc nhiên nữa. Chúng cũng không ngạc nhiên khi thấy bọn lợn mua đài, rồi thảo luận kí hợp đồng đặt máy điện thoại cũng như đặt mua những tờ báo như John Bull , Tits-Bit và Daily Mirror . Chúng cũng không ngạc nhiên khi trông thấy Napoleon mồm ngậm tẩu thuốc đi dạo trong vườn, cũng như khi thấy lũ lợn lấy quần áo của ông Jones ra diện nữa. Napoleon chọn cho mình chiếc áo khoác đen, quần ống túm, ủng da; trong khi con lợn cái mà nó thích nhất được bộ lụa tơ tằm mà bà Jones thường mặc khi đi nhà thờ, vào những ngày chủ nhật.
Một tuần sau, buổi chiều, có rất nhiều xe cộ đi vào trại. Đấy là đại biểu các trang trại lân cận được mời đến thăm quan Trại Súc Vật. Quan khách rất ngạc nhiên khi được xem các cánh đồng, các công cụ sản xuất của trại, đặc biệt là cối xay gió. Lúc đó lũ súc vật đang nhổ cỏ trên cánh đồng trồng củ cải. Chúng làm việc chăm chỉ, ít khi ngẩng đầu lên. Chúng cũng không biết trong hai loại đó, quan khách và lợn, bọn nào đáng sợ hơn.
Tối hôm đó có tiếng hát và tiếng cười rất to vẳng lại từ phía ngôi nhà chính. Lũ súc vật bỗng cảm thấy tò mò, muốn biết trong nhà đó đang nói chuyện gì vì đây là lần đầu tiên con người và con vật gặp nhau như những đối tác bình đẳng. Rồi không con nào bảo con nào, chúng cùng nằm xuống và im lặng bò đến gần toà nhà chính.
Chúng hơi lưỡng lự khi bò đến cổng, nhưng Bà Mập đã tiến lên hàng đầu. Khi đến gần toà nhà thì chúng nhón gót đứng lên, những con đủ chiều cao có thể nhìn được qua cửa sổ. Bên trong, có sáu điền chủ và sáu con lợn xuất chúng nhất đang ngồi xung quanh một cái bàn dài. Napoleon ngồi ngay đầu bàn, chỗ trang trọng nhất. Có vẻ như lũ lợn đã quen với việc ngồi ghế từ lâu. Cả bọn vừa đánh bài, nhưng lúc ấy đã ngưng, chắc là để nâng cốc chúc mừng nhau. Một chiếc bình khá to được chuyền tay nhau và tất cả các li đều được rót đầy bia. Không ai để ý đến lũ súc vật đang tò mò nhìn qua cửa sổ.
Ông Pilkington, Trại Cáo, tay cầm li bia, đứng dậy. Ông nói rằng sau đây ông sẽ đề nghị nâng li chúc mừng. Nhưng ông xin được nói vài lời trước đã.
"Thật là vô cùng phấn khởi - ông nói - đối với ông, cũng như đối với tất cả những người đang có mặt ở đây hôm nay, vì giai đoạn nghi kị và hiểu lầm đã chấm dứt". Đã có thời kì, dĩ nhiên là ông cũng như những người có mặt ở đây hôm nay không hề muốn như thế, nhưng rõ ràng là đã có những thời kì mà những người xung quanh nhìn các chủ nhân đáng kính của Trại Súc Vật với một thái độ, không thể nói là thù địch, nhưng với một sự thiếu thiện cảm. Đáng tiếc là đã xảy ra một vài va chạm, đã lưu truyền một vài quan niệm sai lầm. Có ý kiến cho rằng một trang trại của lợn và do lợn quản lí là một điều bất bình thường và không nghi ngờ gì rằng trại này sẽ tạo ra những ảnh hưởng không hay cho những trang trại xung quanh. Nhiều điền chủ, phải nói là khá nhiều, không hề điều nghiên, đã vội kết luận rằng ở đây sẽ có nhiều hành vi quá trớn và thiếu kỉ cương. Họ lo lắng về ảnh hưởng của trang trại này không chỉ đối với súc vật mà còn đối với cả những người làm thuê cho họ nữa. Nhưng tất cả những mối ngờ vực đó đã chấm dứt. Hôm nay, ông và các đồng nghiệp đã được mời thăm quan trang trại, họ đã xem xét rất kĩ, họ đã tìm thấy gì? Không chỉ công nghệ hiện đại nhất mà cả kỉ cương, trật tự của trại đều xứng đáng cho các trang trại khắp nơi học tập. Ông tin không nói sai khi bảo rằng những loài súc vật hạ đẳng ở đây làm việc nhiều hơn nhưng lại nhận được khẩu phần ít hơn so với các trại khác trong khu vực. Tóm lại, ông và các đồng nghiệp đã trông thấy ở đây nhiều điều đáng phải áp dụng ngay.
Ông nói xin chúc tình hữu nghị giữa Trại Súc Vật và các trại khác đã, đang và sẽ tồn tại mãi mãi. Quyền lợi của loài lợn và của loài người không hề và không được mâu thuẫn nhau. Cả hai đều có chung mục đích và có chung những khó khăn. Vấn đề sức lao động thì ở đâu chả giống nhau, có phải thế không? Đến đây thì rõ ràng là Pilkington định nói một câu khôi hài đã chuẩn bị sẵn từ lâu, nhưng buồn cười quá, không thể thốt thành lời. Sau một lúc cố gắng đè nén tình cảm, Pilkington nói một câu như sau:
"Nếu các bạn phải xử lí những loài vật hạ đẳng, thì chúng tôi, chúng tôi cũng phải xử lí các giai cấp hạ đẳng."
Đáp lại câu nói ý vị đó là tiếng cười tưởng muốn vỡ nhà, Pilkington lại chúc mừng lũ lợn về việc ăn ít, làm nhiều và kỉ cương, nề nếp của trại.
Và bây giờ, Pilkington đề nghị mọi người cùng đứng dậy, đổ đầy bia vào li.
"Thưa các ngài!", Pilkington kết thúc bài diễn văn như vậy, "Thưa các ngài, xin các ngài cùng nâng cốc chúc Trại Súc Vật ngày càng thịnh vượng."
Tiếng vỗ tay, tiếng dậm chân ầm ầm. Napoleon khoái bài diễn văn đến nỗi đến chạm cốc với Pilkington rồi mới uống. Khi tiếng vỗ tay đã dịu xuống, thì Napoleon, lúc đó vẫn đứng, tuyên bố rằng nó cũng xin được phát biểu vài câu.
Napoleon bao giờ cũng nói ngắn và đi ngay vào thực chất vấn đề. Napoleon bảo rằng nó cũng rất mừng là đã thanh toán hết mọi hiểu lầm. Trước đây từng có những tin đồn, chắc chắn là do những thế lực thù địch tuyên truyền, rằng dường như nó và các cộng sự đang theo đuổi những ý tưởng phá hoại, nếu không nói là có tính cách mạng. Người ta vu cho chúng ý định kích động súc vật trong các trại khác đứng lên khởi nghĩa. Vu khống, bịa đặt từ đầu tới cuối! Ước muốn duy nhất của chúng, hiện nay cũng như trong quá khứ, là được sống trong hoà bình và có quan hệ làm ăn bình thường với những người láng giềng. Trại mà nó được vinh dự lãnh đạo, Napoleon nói thêm, là một loại hợp tác xã. Tất cả những thứ nằm dưới sự quản lí của nó là tài sản chung của cả loài lợn trong trại.
Napoleon nói, nó tin là mọi nghi ngờ đã được giải toả và những thay đổi gần đây càng làm tăng thêm sự tin cậy lẫn nhau hơn nữa. Cho đến nay các con vật trong trang trại có một thói quen không hay là gọi nhau bằng "Đồng chí". Thói quen này sẽ bị bãi bỏ. Còn một thói quen nữa, không biết bắt đầu từ khi nào, ấy là việc sáng nào cũng đi thành hàng ngũ trong sân, xung quanh một cái sọ heo cắm trên cọc. Thói quen này cũng bị bãi bỏ và cái đầu heo đã được đem chôn rồi. Các vị khách chắc đã có dịp trông thấy lá cờ xanh tung bay. Nếu quả họ đã trông thấy thì chắc chắn là họ phải nhận ra rằng biểu tượng sừng và móng màu trắng cũng đã bị xóa bỏ rồi. Từ nay trở đi lá cờ sẽ chỉ có một màu xanh tinh khiết mà thôi.
Nó nói rằng nó xin phép được sửa lại chút xíu bài diễn văn vô cùng súc tích và đầy thiện ý của ngài Pilkington. Trong suốt bài diễn văn, ngài Pilkington đã gọi trại này là Trại Súc Vật. Ngài Pilkington dĩ nhiên không thể biết, vì hôm nay, đây là lần đầu tiên Napoleon tuyên bố hủy bỏ tên Trại Súc Vật. Từ nay trở đi trại sẽ lấy tên là Điền Trang, cần phải gọi như thế vì từ nguyên uỷ trại này vốn vẫn mang tên như thế.
"Thưa các ngài!", Napoleon kết luận, "Tôi đề nghị các ngài nâng cốc chúc mừng, nhưng với một chút xíu sửa đổi. Xin các ngài rót đầy cốc đi đã. Xin các ngài nâng cốc chúc Điền Trang ngày càng thịnh vượng!"
Tiếng vỗ tay vang lên, mọi người cạn cốc. Nhưng những con vật đang đứng bên ngoài thì thấy như đang xảy ra một chuyện kì lạ. Tại sao mặt những con heo lại thành như thế kia nhỉ? Đôi mắt đục mờ của Bà Mập hết nhìn con này lại nhìn sang con khác. Con thì cằm có đến năm ngấn, con lại có bốn, con thì có ba. Tại sao mọi thứ lại trở nên mờ ảo và thay đổi nhanh thế nhỉ? Tiếng vỗ tay chấm dứt, bàn tiệc quay lại với ván bài bỏ dở, những con đứng xem bên ngoài lục tục bò trở ra.
Nhưng chúng vừa bò cách khoảng hai mươi mét thì tất cả cùng dừng lại. Có tiếng hò hét ầm ĩ vọng ra từ toà nhà. Chúng lập tức quay lại và tiếp tục nhìn qua cửa sổ. Cuộc tranh cãi đang hồi quyết liệt. Có tiếng hét, tiếng đập bàn, tiếng tranh luận và những ánh mắt nghi kị. Nguyên nhân cuộc tranh cãi có lẽ là do Napoleon và Pilkington đưa ra con đầm pích cùng một lúc.
Mười hai cái miệng tức giận cùng lên tiếng, có trời mới phân biệt được ai với ai. Bọn súc vật không còn để ý đến mặt mấy con lợn bên trong nữa. Chúng nhìn lợn rồi lại nhìn người, nhìn người rồi lại nhìn lợn, một lúc sau thì chúng chịu, không thể phân biệt được đâu là người, đâu là lợn nữa.
Tháng 11 năm 1943 - tháng 2 năm 1944.
Trại Súc Vật có thêm nhiều thành viên mới, tất nhiên là không nhiều như chúng nghĩ lúc đầu. Một số con được sinh ra ngay tại đây, đối với chúng, cuộc Khởi Nghĩa chỉ là một truyền thống mù mờ, được truyền khẩu cho nhau. Một số được mua từ nơi khác về, những con này chưa từng nghe ai nói chuyện đó trước khi đến đây. Ngoài Bà Mập, trại còn có thêm ba con ngựa nữa. Đấy là những con to, khỏe, chăm làm, tốt bụng nhưng ngu lắm. Không con nào thuộc quá chữ B. Chúng tin tưởng tuyệt đối vào Súc Sinh Kinh và những câu chuyện về cuộc Khởi Nghĩa, đặc biệt là những chuyện do Bà Mập, mà chúng coi như mẹ, kể lại; nhưng có vẻ như chúng cũng chẳng hiểu mô tê gì.
Trang trại được tổ chức tốt và ngày một phồn vinh hơn; chúng còn mở rộng thêm bằng cách mua của Pilkington hai khu đất nữa. Cối xay gió đã hoàn thành, chúng mua được cả máy đập lúa, máy nâng hạ và còn xây được thêm nhiều toà nhà. Whymper cũng mua được cho mình một cỗ xe nhỏ. Chúng không lắp máy phát điện lên cối xay gió mà dùng nó để xay xát, nhờ thế chúng kiếm được khối tiền. Chúng lại đang xây một cối xay gió nữa, sẽ lắp máy phát điện ở đấy, chúng bảo thế. Nhưng những thứ xa xỉ như đèn điện, nước nóng, tuần làm việc ba ngày mà chúng từng mơ mộng thời còn Tuyết Tròn thì không được nhắc đến nữa. Napoleon từng tuyên bố rằng những tư tưởng đại loại như vậy là trái hoàn toàn với tinh thần của Súc Sinh Kinh. Hạnh phúc chân chính, nó bảo, là lao động hăng say và sống đạm bạc, tiết kiệm.
Trang trại giàu có thêm, nhưng ngoại trừ lũ lợn và chó ra, đời sống của các con khác thì vẫn như xưa. Cũng có thể một phần là do có nhiều lợn và chó quá. Bọn này cũng làm việc, dĩ nhiên là theo cách của mình. Chỉ Điểm giải thích không mệt mỏi rằng tổ chức và kiểm tra công tác của trại là những việc phải làm thường xuyên, liên tục. Mà những giống khác đâu có đảm đương được, việc này cần nhiều trí thông minh lắm. Thí dụ, Chỉ Điểm bảo rằng lũ lợn mất rất nhiều công sức vào việc soạn những cái gọi là "tài liệu", "dữ liệu", "báo cáo", "biên bản", "ghi nhớ". Đấy là những tờ giấy to, viết đầy chữ và sau khi viết xong thì đem vào lò đốt. Nhờ thế mà trang trại mới được phồn vinh như ngày nay đấy, Chỉ Điểm thường nói như vậy. Dù sao mặc lòng, những thứ ấy chẳng thể làm lũ chó, lợn ấy no được, mà chúng phàm ăn lắm.
Cuộc sống của những con khác thì vẫn như xưa. Ngày chúng thường bị đói, đêm chúng ngủ trên ổ rơm, nước thì uống ngay ở dưới ao, làm việc ngoài đồng trống, mùa đông thì mất ngủ vì rét, mùa hè thì khổ vì ruồi. Thỉnh thoảng những con có tuổi cố nhớ lại xem nay đời sống của chúng có khá hơn ngay sau Khởi Nghĩa, khi chúng vừa đuổi lão Jones đi, hay không. Nhưng chúng không nhớ nổi. Không có gì cho chúng so sánh: trong đầu chúng chỉ có mỗi những số liệu của Chỉ Điểm, những con số luôn luôn chứng tỏ rằng mọi thứ đều được cải thiện, đều tốt thêm một bước mỗi ngày. Thôi thì đành vậy vả lại chúng cũng chẳng có nhiều thời gian để mà suy nghĩ lung tung. Chỉ có Benjamin già nua là khẳng định rằng nó nhớ hết, nhớ đến từng chi tiết mọi việc đã qua và biết rõ rằng chúng chưa bao giờ khổ hơn cũng chẳng bao giờ được sướng hơn, vẫn là đói, là bán mặt cho đất bán lưng cho trời, là bị loè bịp; qui luật cuộc đời vốn là như thế, nó thường bảo như vậy.
Dù sao chúng vẫn cứ hi vọng. Hơn thế nữa, chúng còn luôn tự hào được là công dân của Trại Súc Vật. Trong nước này, mà là nước Anh hẳn hoi đấy nhé, đây là trang trại duy nhất của súc vật và do súc vật quản lí! Tất cả mọi con vật, từ những con nhỏ nhất cho đến những con mới được mua từ cách xa cả chục cây số về, đều tự hào như thế. Nhất là khi chúng nghe thấy tiếng súng nổ, khi trông thấy lá cờ xanh tung bay là tim chúng lại đập rộn rã, khi ấy, dù đang nói chuyện gì chúng cũng quay lại đề tài về những năm tháng hào hùng, về việc lật đổ lão Jones, về việc thiết lập Bảy Điều Răn và về những trận chiến đấu oanh liệt chống lũ người xâm lược. Chúng cũng không quên nhắc nhở nhau những kì vọng thuở ban đầu. Chúng tin rằng lời tiên tri của Thủ Lĩnh già về ngày thành lập Nước Cộng Hòa Súc Vật trên toàn lãnh thổ Anh quốc, ngày con người bị tống khứ khỏi sứ sở này nhất định sẽ tới. Ước mơ của chúng sẽ thành hiện thực, nhất định ngày đó sẽ tới, dù còn lâu, dù rằng tất cả những con đang sống hiện nay sẽ không được chứng kiến, nhưng ngày đó nhất định sẽ tới. Chúng cũng không quên bài "Súc Sinh Anh quốc", con nào cũng biết hát bài này, nhưng chúng chỉ dám hát thầm với nhau mà thôi. Dù cuộc sống còn nhiều khó khăn, dù không phải tất cả ước mơ của chúng đều được thực hiện, nhưng trong thâm tâm chúng biết rằng chúng là những con vật đặc biệt. Dù chúng chưa được no, nhưng chúng không phải làm để nuôi bọn người tàn độc; dù chúng còn phải lao động vất vả, nhưng đấy là chúng làm cho chính mình. Không con nào đi hai chân, không còn quan hệ chủ tớ. Tất cả đều bình đẳng.
Một hôm, đấy là đầu mùa hạ, Chỉ Điểm bỗng ra lệnh cho lũ cừu đi theo nó ra cánh đồng bỏ hoang bên ngoài trại, nơi có cả một rừng bạch dương non. Lũ cừu ở đó cả ngày, tha hồ nhai lá, dĩ nhiên là dưới sự chỉ đạo của Chỉ Điểm. Tối hôm đó Chỉ Điểm quay lại trang trại một mình, hôm đó thời tiết tốt nên nó bảo lũ cừu ngủ ngay ngoài đồng cho mát. Chúng ở lại đó suốt một tuần liền. Ngày nào Chỉ Điểm cũng ra với lũ cừu. Theo như nó nói thì nó đang dạy lũ cừu một bài hát mới, mà yên tĩnh thì học mới mau "vào".
Một chiều, hôm ấy lũ cừu đã học xong và trở về rồi, trong khi cả bọn đang quay về sau một ngày lao động thì chúng bỗng nghe thấy tiếng ngựa kêu thất thanh từ phía trại vọng lại. Quá hỏang sợ, tất cả lập tức đứng như trời trồng. Đấy là tiếng kêu của Bà Mập. Nó lại kêu lên lần nữa, tất cả lập tức phóng thật nhanh vào sân trại để xem có chuyện gì. Và chúng nhìn thấy chính cái điều đã làm Bà Mập hoảng loạn.
Đấy là một con lợn đang bước đi bằng hai chân sau.
Vâng, chính là Chỉ Điểm đang đi. Có vẻ vụng về, dĩ nhiên rồi, một phần vì chưa quen, một phần vì quá nặng, nhưng nó vẫn giữ được thăng bằng và đi từ bên này sang tận bên kia sân. Một lúc sau thì từ cửa chính ngôi nhà cả đàn lợn bước ra, tất cả, không trừ con nào, đều đi bằng hai chân sau. Một số con bước đi một cách tự tin, một số con còn lảo đảo, giá có cái ba toong thì vững hơn, nhưng tất cả đều đi một vòng quanh sân mà không con nào bị ngã. Cuối cùng là tiếng chó sủa dữ dội, tiếng gà gáy vang rền và Napoleon bước ra, lưng thẳng tắp, dáng oai vệ, nó nhìn khắp lượt, xung quanh tíu tít bày cừu.
Chân trước nó cầm một cái roi to.
Xung quanh lặng ngắt như tờ. Ngạc nhiên pha lẫn hoảng sợ, lũ súc vật tụ vào một góc để nhìn đàn lợn nối nhau đi quanh sân. Thế giới đảo điên hết rồi sao? Phút hoảng loạn ban đầu rồi cũng qua và dù có sợ bầy chó, dù bao năm đã quen không dám phàn nàn, không dám phản đối, lần này chắc chắn chúng sẽ lên tiếng phản đối. Nhưng đúng lúc đó, như có hiệu lệnh, bọn cừu đồng thanh gào lên:
"Bốn chân tốt, hai chân tốt hơn! Bốn chân tốt, hai chân tốt hơn! Bốn chân tốt, hai chân tốt hơn!"
Chúng tụng như thế năm phút liền, không ngưng nghỉ. Khi lũ cừu im thì đàn lợn đã vào hết trong nhà rồi, có phản đối cũng chẳng ai nghe.
Benjamin cảm thấy như có con nào đang lấy mũi cọ vào vai mình. Nó quay đầu lại. Hoá ra là Bà Mập. Đôi mắt đã mờ của nó trông càng buồn hơn lúc nào hết. Nó khẽ ngoạm vào bờm của Benjamin và kéo ra phía đầu hồi của nhà kho lớn. Chúng đứng đó, yên lặng ngắm những dòng chữ màu trắng trên bức tường sơn hắc ín.
"Tôi chẳng còn trông thấy gì cả - Cuối cùng Bà Mập lên tiếng - Ngay khi còn trẻ tôi cũng có đọc được chữ nào đâu. Nhưng tôi thấy hình như bức tường trông khác lắm. Bảy Điều Răn vẫn thế chứ, anh Benjamin?"
Đây là lần đầu tiên Benjamin từ bỏ thói quen cố hữu của nó và khẽ đọc cho Bà Mập nghe. Trên bức tường chỉ còn ghi một Điều Răn duy nhất như sau:
MỌI CON VẬT SINH RA ĐỀU BÌNH ĐẲNG, NHƯNG CÓ MỘT SỐ CON BÌNH ĐẲNG HƠN NHỮNG CON KHÁC.
Sau đó thì ngay cả việc những con lợn đốc công mang theo roi ra đồng cũng không làm chúng ngạc nhiên nữa. Chúng cũng không ngạc nhiên khi thấy bọn lợn mua đài, rồi thảo luận kí hợp đồng đặt máy điện thoại cũng như đặt mua những tờ báo như John Bull , Tits-Bit và Daily Mirror . Chúng cũng không ngạc nhiên khi trông thấy Napoleon mồm ngậm tẩu thuốc đi dạo trong vườn, cũng như khi thấy lũ lợn lấy quần áo của ông Jones ra diện nữa. Napoleon chọn cho mình chiếc áo khoác đen, quần ống túm, ủng da; trong khi con lợn cái mà nó thích nhất được bộ lụa tơ tằm mà bà Jones thường mặc khi đi nhà thờ, vào những ngày chủ nhật.
Một tuần sau, buổi chiều, có rất nhiều xe cộ đi vào trại. Đấy là đại biểu các trang trại lân cận được mời đến thăm quan Trại Súc Vật. Quan khách rất ngạc nhiên khi được xem các cánh đồng, các công cụ sản xuất của trại, đặc biệt là cối xay gió. Lúc đó lũ súc vật đang nhổ cỏ trên cánh đồng trồng củ cải. Chúng làm việc chăm chỉ, ít khi ngẩng đầu lên. Chúng cũng không biết trong hai loại đó, quan khách và lợn, bọn nào đáng sợ hơn.
Tối hôm đó có tiếng hát và tiếng cười rất to vẳng lại từ phía ngôi nhà chính. Lũ súc vật bỗng cảm thấy tò mò, muốn biết trong nhà đó đang nói chuyện gì vì đây là lần đầu tiên con người và con vật gặp nhau như những đối tác bình đẳng. Rồi không con nào bảo con nào, chúng cùng nằm xuống và im lặng bò đến gần toà nhà chính.
Chúng hơi lưỡng lự khi bò đến cổng, nhưng Bà Mập đã tiến lên hàng đầu. Khi đến gần toà nhà thì chúng nhón gót đứng lên, những con đủ chiều cao có thể nhìn được qua cửa sổ. Bên trong, có sáu điền chủ và sáu con lợn xuất chúng nhất đang ngồi xung quanh một cái bàn dài. Napoleon ngồi ngay đầu bàn, chỗ trang trọng nhất. Có vẻ như lũ lợn đã quen với việc ngồi ghế từ lâu. Cả bọn vừa đánh bài, nhưng lúc ấy đã ngưng, chắc là để nâng cốc chúc mừng nhau. Một chiếc bình khá to được chuyền tay nhau và tất cả các li đều được rót đầy bia. Không ai để ý đến lũ súc vật đang tò mò nhìn qua cửa sổ.
Ông Pilkington, Trại Cáo, tay cầm li bia, đứng dậy. Ông nói rằng sau đây ông sẽ đề nghị nâng li chúc mừng. Nhưng ông xin được nói vài lời trước đã.
"Thật là vô cùng phấn khởi - ông nói - đối với ông, cũng như đối với tất cả những người đang có mặt ở đây hôm nay, vì giai đoạn nghi kị và hiểu lầm đã chấm dứt". Đã có thời kì, dĩ nhiên là ông cũng như những người có mặt ở đây hôm nay không hề muốn như thế, nhưng rõ ràng là đã có những thời kì mà những người xung quanh nhìn các chủ nhân đáng kính của Trại Súc Vật với một thái độ, không thể nói là thù địch, nhưng với một sự thiếu thiện cảm. Đáng tiếc là đã xảy ra một vài va chạm, đã lưu truyền một vài quan niệm sai lầm. Có ý kiến cho rằng một trang trại của lợn và do lợn quản lí là một điều bất bình thường và không nghi ngờ gì rằng trại này sẽ tạo ra những ảnh hưởng không hay cho những trang trại xung quanh. Nhiều điền chủ, phải nói là khá nhiều, không hề điều nghiên, đã vội kết luận rằng ở đây sẽ có nhiều hành vi quá trớn và thiếu kỉ cương. Họ lo lắng về ảnh hưởng của trang trại này không chỉ đối với súc vật mà còn đối với cả những người làm thuê cho họ nữa. Nhưng tất cả những mối ngờ vực đó đã chấm dứt. Hôm nay, ông và các đồng nghiệp đã được mời thăm quan trang trại, họ đã xem xét rất kĩ, họ đã tìm thấy gì? Không chỉ công nghệ hiện đại nhất mà cả kỉ cương, trật tự của trại đều xứng đáng cho các trang trại khắp nơi học tập. Ông tin không nói sai khi bảo rằng những loài súc vật hạ đẳng ở đây làm việc nhiều hơn nhưng lại nhận được khẩu phần ít hơn so với các trại khác trong khu vực. Tóm lại, ông và các đồng nghiệp đã trông thấy ở đây nhiều điều đáng phải áp dụng ngay.
Ông nói xin chúc tình hữu nghị giữa Trại Súc Vật và các trại khác đã, đang và sẽ tồn tại mãi mãi. Quyền lợi của loài lợn và của loài người không hề và không được mâu thuẫn nhau. Cả hai đều có chung mục đích và có chung những khó khăn. Vấn đề sức lao động thì ở đâu chả giống nhau, có phải thế không? Đến đây thì rõ ràng là Pilkington định nói một câu khôi hài đã chuẩn bị sẵn từ lâu, nhưng buồn cười quá, không thể thốt thành lời. Sau một lúc cố gắng đè nén tình cảm, Pilkington nói một câu như sau:
"Nếu các bạn phải xử lí những loài vật hạ đẳng, thì chúng tôi, chúng tôi cũng phải xử lí các giai cấp hạ đẳng."
Đáp lại câu nói ý vị đó là tiếng cười tưởng muốn vỡ nhà, Pilkington lại chúc mừng lũ lợn về việc ăn ít, làm nhiều và kỉ cương, nề nếp của trại.
Và bây giờ, Pilkington đề nghị mọi người cùng đứng dậy, đổ đầy bia vào li.
"Thưa các ngài!", Pilkington kết thúc bài diễn văn như vậy, "Thưa các ngài, xin các ngài cùng nâng cốc chúc Trại Súc Vật ngày càng thịnh vượng."
Tiếng vỗ tay, tiếng dậm chân ầm ầm. Napoleon khoái bài diễn văn đến nỗi đến chạm cốc với Pilkington rồi mới uống. Khi tiếng vỗ tay đã dịu xuống, thì Napoleon, lúc đó vẫn đứng, tuyên bố rằng nó cũng xin được phát biểu vài câu.
Napoleon bao giờ cũng nói ngắn và đi ngay vào thực chất vấn đề. Napoleon bảo rằng nó cũng rất mừng là đã thanh toán hết mọi hiểu lầm. Trước đây từng có những tin đồn, chắc chắn là do những thế lực thù địch tuyên truyền, rằng dường như nó và các cộng sự đang theo đuổi những ý tưởng phá hoại, nếu không nói là có tính cách mạng. Người ta vu cho chúng ý định kích động súc vật trong các trại khác đứng lên khởi nghĩa. Vu khống, bịa đặt từ đầu tới cuối! Ước muốn duy nhất của chúng, hiện nay cũng như trong quá khứ, là được sống trong hoà bình và có quan hệ làm ăn bình thường với những người láng giềng. Trại mà nó được vinh dự lãnh đạo, Napoleon nói thêm, là một loại hợp tác xã. Tất cả những thứ nằm dưới sự quản lí của nó là tài sản chung của cả loài lợn trong trại.
Napoleon nói, nó tin là mọi nghi ngờ đã được giải toả và những thay đổi gần đây càng làm tăng thêm sự tin cậy lẫn nhau hơn nữa. Cho đến nay các con vật trong trang trại có một thói quen không hay là gọi nhau bằng "Đồng chí". Thói quen này sẽ bị bãi bỏ. Còn một thói quen nữa, không biết bắt đầu từ khi nào, ấy là việc sáng nào cũng đi thành hàng ngũ trong sân, xung quanh một cái sọ heo cắm trên cọc. Thói quen này cũng bị bãi bỏ và cái đầu heo đã được đem chôn rồi. Các vị khách chắc đã có dịp trông thấy lá cờ xanh tung bay. Nếu quả họ đã trông thấy thì chắc chắn là họ phải nhận ra rằng biểu tượng sừng và móng màu trắng cũng đã bị xóa bỏ rồi. Từ nay trở đi lá cờ sẽ chỉ có một màu xanh tinh khiết mà thôi.
Nó nói rằng nó xin phép được sửa lại chút xíu bài diễn văn vô cùng súc tích và đầy thiện ý của ngài Pilkington. Trong suốt bài diễn văn, ngài Pilkington đã gọi trại này là Trại Súc Vật. Ngài Pilkington dĩ nhiên không thể biết, vì hôm nay, đây là lần đầu tiên Napoleon tuyên bố hủy bỏ tên Trại Súc Vật. Từ nay trở đi trại sẽ lấy tên là Điền Trang, cần phải gọi như thế vì từ nguyên uỷ trại này vốn vẫn mang tên như thế.
"Thưa các ngài!", Napoleon kết luận, "Tôi đề nghị các ngài nâng cốc chúc mừng, nhưng với một chút xíu sửa đổi. Xin các ngài rót đầy cốc đi đã. Xin các ngài nâng cốc chúc Điền Trang ngày càng thịnh vượng!"
Tiếng vỗ tay vang lên, mọi người cạn cốc. Nhưng những con vật đang đứng bên ngoài thì thấy như đang xảy ra một chuyện kì lạ. Tại sao mặt những con heo lại thành như thế kia nhỉ? Đôi mắt đục mờ của Bà Mập hết nhìn con này lại nhìn sang con khác. Con thì cằm có đến năm ngấn, con lại có bốn, con thì có ba. Tại sao mọi thứ lại trở nên mờ ảo và thay đổi nhanh thế nhỉ? Tiếng vỗ tay chấm dứt, bàn tiệc quay lại với ván bài bỏ dở, những con đứng xem bên ngoài lục tục bò trở ra.
Nhưng chúng vừa bò cách khoảng hai mươi mét thì tất cả cùng dừng lại. Có tiếng hò hét ầm ĩ vọng ra từ toà nhà. Chúng lập tức quay lại và tiếp tục nhìn qua cửa sổ. Cuộc tranh cãi đang hồi quyết liệt. Có tiếng hét, tiếng đập bàn, tiếng tranh luận và những ánh mắt nghi kị. Nguyên nhân cuộc tranh cãi có lẽ là do Napoleon và Pilkington đưa ra con đầm pích cùng một lúc.
Mười hai cái miệng tức giận cùng lên tiếng, có trời mới phân biệt được ai với ai. Bọn súc vật không còn để ý đến mặt mấy con lợn bên trong nữa. Chúng nhìn lợn rồi lại nhìn người, nhìn người rồi lại nhìn lợn, một lúc sau thì chúng chịu, không thể phân biệt được đâu là người, đâu là lợn nữa.
Tháng 11 năm 1943 - tháng 2 năm 1944.
- Hết -
Dịch lần đầu ngày 28 tháng 12 năm 2003, góp phần kỉ niệm 100 năm ngày sinh của George Orwell.
No comments:
Post a Comment