330.
Intelligence Services – Tình báo. Tình báo là từ chỉ hoạt động thu thập tin tức một
cách bí mật khiến người bị theo dõi không biết rằng mình đang bị theo dõi. Gián
điệp (nhân viên tình báo hay điệp viên) cũng được dùng để chỉ người làm việc
cho một hoặc nhiều cơ quan tình báo với hoạt động thu thập thông tin một cách
bí mật. Yếu tố quan trọng của gián điệp là hoạt động bí mật, vì nếu người bị
theo dõi khám phá ra thì họ sẽ tìm cách thay đổi môi trường để không bị theo
dõi.
Lịch sử Trung Quốc và Ấn Độ có ghi nhận nhiều hoạt động gián điệp từ thời
xa xưa. Hai chiến lược gia nổi tiếng là Tôn Tử và Chanakya bàn nhiều về các biện
pháp đánh lừa địch và làm xáo trộn hàng ngũ quân địch. Đệ tử của Chanakya là
hoàng đế Ấn Độ Chandragupta Maurya đã dùng nhiều biện pháp ám sát và gián điệp
mà Chanakya viết trong cuốn Arthashastra của ông. Lịch sử Hy Lạp và Đế quốc La
Mã ghi chép rất nhiều về sử dụng gián điệp để thăm dò quân thù. Người Mông Cổ
dùng nhiều gián điệp trong công cuộc chinh phục Á Châu và Âu Châu trong thế kỷ XII
và XIII.
Hoat động tình báo, gián điệp được ghi nhận nhiều nhất trong thế kỷ XX.
Trong Chiến tranh Lạnh, từ 1945 cho đến thập niên 1990, Hoa Kì, Liên Xô, và
Trung Quốc dùng rất nhiều gián điệp để thu thập tình báo của đối phương, nhất
là tình báo về vũ khí hạt nhân. Trong thế kỷ XXI, bên cạnh vấn đề vũ khí hạt
nhân, các cường quốc còn mở rộng hoạt động gián điệp sang lĩnh vực tình báo mạng,
chiến tranh ma túy và các tổ chức khủng bố quốc tế.
331. Intelligentsia – Tầng
lớp trí thức. Đây là từ gốc
Nga để chỉ những người trí thức tham gia vào lĩnh vực chính trị - phần lớn những
nhà cải cách Nga thế kỉ XIX là thuộc nhóm này.
332. Interdependence –
Phụ thuộc lẫn nhau. Phụ thuộc lẫn
nhau là sự tương thuộc giữa hai hoặc nhiều nhóm, hoặc giữa các thành viên của một
nhóm với nhau. Khái niệm này khác với quan hệ phụ thuộc, trong đó một số thành
viên phụ thuộc vào một số thành viên khác, còn một số thì không, và khác với
khái niệm độc lập hoàn toàn - các thành viên hoàn toàn không phụ thuộc vào hành
động hoặc hậu quả hành động của bất kì thành viên nào khác trong cùng nhóm.
333. Interest Group -
Nhóm lợi ích. Nhóm lợi ích
là các hiệp hội được thành lập nhằm thúc đẩy lợi ích của một nhóm người trong hệ
thống chính trị. Do đó, công đoàn, hiệp hội nghề nghiệp, các tổ chức của người
sử dụng lao động.. thường được gọi là các
nhóm lợi ích. Nhóm lợi ích cũng đôi khi bị hiểu là nhóm áp lực và các tổ chức tự
nguyện, mặc dù thường được sử dụng để chỉ các nhóm được tổ chức nhằm thúc đẩy hoặc
bảo vệ một số lợi ích chung của nhóm - thường gặp nhất lợi ích của nghề nghiệp
nào đó.
Để giành được mục đích của nhóm, người
ta có thể sử dụng nhiều chiến thuật khác nhau. Các tổ chức công đoàn có thể đe
dọa rút người lao động và tổ chức đình công, trong khi các nhóm chuyên gia thường
cố gắng thúc đẩy mục tiêu của mình bằng những phương pháp gián tiếp hơn, ví dụ,
tiếp xúc với các quan chức chính phủ, tuyên truyền và quảng cáo. Một số người,
ví dụ Bentley và David B. Truman coi các
nhóm lợi ích là nhân tố quan trọng trong việc tìm hiểu hệ thống chính trị. Nhiều
nhóm lợi ích xây dựng được những mối quan hệ chặt chẽ, thậm chí chính thức với
các đảng phái chính trị. Các tổ chức công đoàn ở Anh và Công đảng chính thức liên
kết với nhau - mặc dù các công đoàn ra đời trước Công đảng và lập ra Đảng này.
Tương tự như thế, các nhóm lợi ích có thể có những liên hệ chặt chẽ với bộ máy quản
lí hành chính hoặc nhánh hành pháp của chính phủ. Ở Hoa Kì, “tổ hợp công nghiệp-quân
sự” có những liên kết chặt chẽ với Lầu Năm Góc, Liên minh nông dân toàn quốc
liên kết chặt chẽ với Bộ Nông nghiệp…. Các nhóm lợi ích nắm được ít biện pháp
chế tài hoặc thuyết phục công khai thường sử dụng những hành động trực tiếp như
mít tinh, tuần hành và biểu tình của quần chúng; vận động hành lang cũng có thể
được sử dụng nhằm thúc đẩy mục tiêu của họ. Trong hầu hết các xã hội phương
Tây, một nghề hoàn toàn mới - vận động hành lang chính trị - đã được người ta
xây dựng nhằm hỗ trợ các nhóm lợi ích liên hệ với các nghị sĩ, quan chức chính
phủ hoặc ngành dân chính. Ví dụ, có người cho rằng dưới thời thủ tướng Thatcher
(1979–90), vận đồng hành lang ở quốc hội Anh đã tăng lên gấp mười lần; ở thủ đô
các nước châu Âu và ở Brussels tình hình cũng tương tự như thế. Từ những năm
1980, người ta đã tiến hành nhiều công trình nghiên cứu xã hội hiện tượng gọi là
“những phong trào xã hội mới”, tức là những hình thức hoạt động chính trị nhóm lan
rộng và có nhiều người tham gia, đôi khi được coi là đe dọa tính hợp pháp của
các đảng chính thống.
bài rất hấp dẫn
ReplyDelete