Pages

July 31, 2017

Trung Quốc dùng thương mại làm vũ khí

Brahma Chellaney

Phạm Nguyên Trường dịch

Trường hợp trả đũa về thương mại đối với Na Uy còn nổi tiếng hơn, được áp dụng sau khi giải Nobel Hòa bình 2010 được trao cho nhà bất đồng chính kiến Trung Quốc đang bị giam giữ là Lưu Hiểu Ba. Kết quả là việc xuất khẩu cá hồi Na Uy sang Trung Quốc bị sụp đổ.



Trung Quốc phủ nhận việc kết hợp kinh doanh với chính trị, nhưng nước này đã sử dụng thương mại nhằm trừng phạt những nước không đi theo đường lối của họ từ khá lâu rồi. Những biện pháp trường phạt kinh tế nặng nề mà Trung Quốc áp dụng ở Hàn Quốc trong thời gian gần đây nhằm phản ứng lại quyết định triển khai hệ thống tên lửa phòng thủ (THAAD) của nước này chỉ là ví dụ mới nhất về việc chính quyền Trung Quốc sử dụng thương mại làm vũ khí chính trị.

Chính phủ Trung Quốc đã khuyến khích và sau đó lợi dụng sự phụ thuộc về kinh tế của các nước khác nhằm buộc họ ủng hộ các mục tiêu của chính sách đối ngoại của nước này. Các biện pháp trừng phạt về kinh tế của Trung Quốc bao gồm hạn chế nhập khẩu hoặc tẩy chay không chính thức hàng hoá từ đất nước mà họ nhắm tới, ngăn chặn việc xuất khẩu các loại hàng hoá chiến lược (như đất hiếm) và khuyến khích các cuộc biểu tình phản đối các doanh nghiệp của đất nước cụ thể nào đó. Các công cụ khác, gồm có hoãn các chuyến du lịch và ngăn chặn đánh bắt cá. Tất cả những biện pháp này đều được sử dụng một cách thận trọng nhằm tránh sự gián đoạn có thể làm tổn hại những lợi ích kinh doanh của chính Trung Quốc.

Mông Cổ đã trở thành trường hợp điển hình về tình trạng áp bức về kinh tế-địa chính trị, sau khi nước này đón tiếp Đạt Lai Lạt Ma hồi tháng 11 năm ngoái. Trong khi Trung Quốc mua tới 90% lượng hàng hoá xuất khẩu của Mông Cổ, chính quyền Trung Quốc quyết định dạy cho Mông Cổ một bài học. Sau khi áp đặt các khoản phí trừng phạt đối với hàng xuất khẩu của Mông Cổ, Ngoại trưởng Trung Quốc, Vương Nghị, nói: “Hy vọng Mông Cổ suy nghĩ thấu đáo bài học này” và “Tuân thủ nghiêm túc lời hứa của mình” là không mời lãnh đạo tinh thần của Tây Tạng một lần nữa.

Trường hợp trả đũa về thương mại đối với Na Uy còn nổi tiếng hơn, được áp dụng sau khi giải Nobel Hòa bình 2010 được trao cho nhà bất đồng chính kiến Trung Quốc đang bị giam giữ là Lưu Hiểu Ba. Kết quả là việc xuất khẩu cá hồi Na Uy sang Trung Quốc bị sụp đổ.

Năm 2010, Trung Quốc đã lợi dụng thế độc quyền toàn cầu của mình trong việc sản xuất đất hiếm nhằm gây đau khổ cho Nhật Bản và phương Tây bằng lệnh cấm xuất khẩu mà không báo trước. Năm 2012, sau khi vụ tranh chấp chủ quyền với Nhật Bản đối với quần đảo Senkaku (Nhật Bản kiểm soát từ năm 1895) bùng phát trở lại, Trung Quốc lại sử dụng thương mại làm vũ khí chiến lược, làm cho Nhật Bản thiệt hại tới hàng tỉ USD.

Tương tự, tháng 4 năm 2012, sau sự cố gần bãi cạn Scarborough ở Biển Đông, Trung Quốc đã bắt nạt Philippines không chỉ bằng cách gửi các tàu tuần tra tới vùng này, mà còn khuyên dân chúng tẩy chay, không đi du lịch tới nước này và áp đặt những hạn chế đột ngột đối với việc nhập khẩu chuối (làm nhiều người trồng chuối Philippines phá sản). Khi quốc tế tập trung chú ý vào các hành động thương mại, Trung Quốc liền lặng lẽ chiếm bãi cạn.

Những vụ trả đũa về thương mại gần đây của Trung Quốc nhằm chống lại Hàn Quốc vì nước này cho triển khai hệ thống THAAD phải được xem xét trong bối cảnh vừa nói. Trung Quốc không áp dụng những biện pháp trả đũa nhằm chống lại Mỹ, mà Mỹ mới là nước triển khai hệ thống phòng thủ nhằm đối phó với đe doạ của Bắc Triều Tiên và có thể phản ứng lại một cách cứng rắn. Đây cũng không phải là lần đầu tiên: Năm 2000, khi Hàn Quốc tăng thuế nhập khẩu đối với tỏi nhằm bảo vệ nông dân trước những vụ nhập khẩu ồ ạt, Trung Quốc đã phản ứng bằng cách cấm nhập khẩu điện thoại di động và polyethylene của Hàn Quốc. Những biện pháp trả đũa tràn lan nhằm chống lại những sản phẩm không liên quan không chỉ nhằm thúc đẩy các ngành sản xuất trong nước, mà còn để đảm bảo rằng Hàn Quốc thiệt hại nhiều hơn hẳn Trung Quốc.

Trung Quốc sẽ không sử dụng đòn thương mại khi nước này bị mất nhiều hơn, như vụ đối đầu giữa quân đội Trung Quốc và Ấn Độ tại nơi mà đường biên giới của Tây Tạng, Bhutan và bang Sikkim của Ấn Độ tiếp giáp nhau cho thấy. Các nhà lãnh đạo Trung Quốc đánh giá cao quan hệ thương mại một chiều với Ấn Độ - xuất khẩu cao gấp 5 lần nhập khẩu – coi đó là vũ khí chiến lược nhằm cắt đứt cơ sở sản xuất của đối thủ trong khi thu được khá nhiều lợi nhuận. Vì vậy, thay vì ngăn chặn việc buôn bán qua biên giới, có thể khuyến khích những biện pháp trả đũa về kinh tế của Ấn Độ, Trung Quốc áp dụng biện pháp cấm người hành hương Ấn Độ tới những khu vực thiêng liêng ở Tây Tạng

Nơi nào mà Trung Quốc nắm được đòn bẩy thương mại thì họ sẽ sử dụng ngay lập tức. Một nghiên cứu được tiến hành năm 2010 phát hiện ra rằng xuất khẩu tới Trung Quốc từ những nước từng đón tiếp Đạt Lai Lạt Ma đã giảm rất nhanh, từ 8,1 tới 16,9%, kết quả là hiện nay hầu hết các nước , trừ Ấn Độ và Mỹ, đều tránh gặp gỡ chính thức với nhà lãnh đạo Tây Tạng.

Thực tiễn khắc nghiệt là Trung Quốc đang trở thành bạo chúa thương mại và đang có những hành động bạo ngược đối luật pháp quốc tế. Những hành động vi phạm của nước này bao gồm: Giữ các rào cản phi thuế quan để ngăn chặn cạnh tranh của hàng hoá nước ngoài, trợ cấp xuất khẩu, ủng hộ các công ty Trung Quốc, xâm phạm sở hữu trí tuệ, sử dụng luật chống độc quyền để xoá bỏ các nhượng bộ và ủng hộ việc mua lại của các công ty nước ngoài để đưa công nghệ của họ về nước.

Tung Quốc thậm chí còn coi các hiệp định song phương chỉ là công cụ nhằm giúp họ đạt được các mục tiêu của mình. Theo quan điểm của Trung Quốc, không có hiệp định nào là có hiệu lực ràng buộc, một khi nó phục vụ mục đích trước mắt của nước này, như các quan chức gần đây đã thể hiện bằng cách cắt xén Tuyên bố chung Trung Quốc-Anh vào năm 1984, mở đường cho việc chuyển giao Hồng Công năm 1997.

Trớ trêu là, Trung Quốc đã phát triển sức mạnh thương mại của mình với sự giúp đỡ của Mỹ, nước này có vai trò quan trọng trong quá trình vuơn lên về kinh tế của Trung Quốc vì đã gỡ bỏ các biện pháp trừng phạt và đưa họ vào các thiết chế toàn cầu. Việc bầu Donald Trump lên làm tổng thống được người ta cho là sẽ chấm dứt giai đoạn Trung Quốc hưởng quá nhiều lợi ích từ thương mại. Tuy nhiên, không những không có bất kỳ hành động nào nhằm chống lại một nước mà mà từ lâu ông ta đã chỉ trích là lừa đảo, Trump lại giúp cho Trung Quốc một lần nữa trở thành vĩ đại, trong đó có việc rút ra khỏi Hiệp ước Xuyên Thái Bình Dương (TPP) và giảm ảnh hưởng của Mỹ ở khu vực châu Á-Thái Bình Dương.

Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe đang tìm cách khôi phục TPP, mà không có Mỹ, có thể giúp kiềm chế những hành vi trục lợi không ngừng nghỉ của Trung Quốc bằng cách tạo ra cộng đồng kinh tế thân thiện với thị trường và dựa vào luật pháp. Nhưng nếu muốn TPP thực sự có hiệu quả trong việc cân bằng uy quyền mà chế độ độc tài đầy sức mạnh và tập quyền cao độ đang nắm thì phải mở rộng cho cả Ấn Độ và Hàn Quốc tham gia.

Cho đến nay, chưa có ai thách thức việc Trung Quốc dùng thương mại làm vũ khí. Phải có một chiến lược quốc tế có phối hợp, phục hồi lại TPP, coi nó là yếu tố thực sự cần thiết, mới có cơ hội buộc các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải chơi theo đúng luật.

Brahma Chellaney, Giáo sư về nghiên cứu chiến lược tại Trung tâm nghiên cứu chính sách ở New Delhi và cộng tác viên của Viện Robert Bosch Berlin. Ông là tác giả của 9 đầu sách, trong đó có cuốn Asian Juggernaut, Water: Asia’s New Battleground, and Water, Peace, and War: Confronting the Global Water Crisis. (Tạm dịch: Nước, Sức mạnh tàn phá của châu Á: Chiến trường mới của châu Á, Nước, Hoà bình và Chiến tranh: Đối mặt với khủng hoảng nước toàn cầu)

Đã đăng trên Việt Nam Thời Báo

Nguồn: https://www.project-syndicate.org/commentary/china-weaponization-of-trade-by-brahma-chellaney-2017-07

No comments:

Post a Comment