Pages

September 6, 2014

OSHO – Những cuốn sách tôi yêu (tiếp theo)

Nguyễn Đình Hách dịch
Chương 6

1984, tại nhà Lão Tử, Rajneeshpuram, Oregon, USA

Bây giờ là tái bút. Trong buổi cuối cùng, khi tôi nói đây là cuốn kết thúc một loạt mười lăm cuốn này mà tôi muốn đưa vào danh sách của tôi, đó chỉ là sự tùy hứng. Tôi không ngụ ý đến sự kết thúc, mà chỉ là con số. Tôi đã chọn mười lăm bởi vì tôi nghĩ đó hẳn sẽ là con số đẹp. Dù sao chăng nữa thì người ta cũng phải quyết định, và mọi quyết định đều tùy hứng. Con người đề xuất và Thượng đế quyết định – Thượng đế là người không tồn tại.


Khi tôi nói cuốn này là sự kết thúc của một loạt cuốn, đám đông đang cáu với tôi – Jaydeva của cuốn GEET GOVIND, Bà Blavatsky Ba hoa-Ba hoa của cuốn HỌC THUYẾT BÍ MẬT, và toàn bộ đám đông, tôi biết nhiều người nhưng không muốn thừa nhận, nói gì về họ để thêm vào danh sách của tôi. Nghe thấy đây sẽ là cuốn kết thúc, tất cả họ đã giải tán.

Thế rồi, tôi tuyệt đối vui khi nhìn ra ý nghĩa câu nói của Jesus: Phúc lành thay những con chiên ngoan đạo, nước trời thuộc về họ. Ông ấy cũng còn nói: Phúc lành thay những người đứng ở phía cuối, sau cùng, những người không cố đẩy – nói tóm lại, những người không tự đề cao, những người chỉ đứng chờ. Khi đám đông giải tán tôi nhìn thấy một số người linh thiêng; do vậy mà có tái bút.

Thậm chí tôi cũng không thể tin rằng mình đã không tính đến DHAMMAPADA của Phật Gautam. Phật Gautam đang ngồi đó tĩnh lặng, ở hàng cuối cùng. Tôi yêu con người đó như tôi chưa từng yêu ai khác. Tôi đã nói về Người suốt cả cuộc đời mình. Ngay cả khi nói về những người khác tôi cũng nói về Người. Hãy chú ý điều đó, đó là sự thú tội. Tôi không thể nói về Jesus mà không mang Phật vào; tôi không thể nói về Mohammed mà không mang Phật vào. Tôi có nói đến Người trực tiếp hay không thì đó lại là vấn đề khác. Với tôi, thực sự không thể nói mà không mang Phật vào. Người chính là xương máu, cốt tủy tôi. Người là sự tĩnh lặng của tôi, cũng là bài ca của tôi. Khi tôi nhìn thấy Người đang ngồi đó tôi đã nhớ lại. Thậm chí tôi không thể xin lỗi, điều đó bên ngoài sự xin lỗi.

DHAMMAPADA có nghĩa đen là ‘Con đường của sự thật’, hoặc thậm chí chính xác hơn ‘những dấu chân của sự thật’.  Bạn có nhìn thấy điều nghịch lý không?

Vào                                                                                                                                                            
ra
những con chim nước
không để lại dấu vết phía sau,
hoặc không cần sự hướng dẫn.

Sự thật không thể được nói. Không có những dấu chân. Đàn chim bay trên bầu trời không để lại dấu chân nào… và các vị Phật là những chú chim trên bầu trời. 

Nhưng các vị Phật luôn nói bởi những điều nghịch lý, và ít nhất thì đó cũng là vẻ đẹp để họ nói, họ không thể giúp được gì. Nói về sự thật là mâu thuẫn với chính bạn. Không nói lại cũng là mâu thuẫn, vì khi bạn đang cố không nói, bạn biết sự tĩnh lặng của bạn không là gì mà là sự biểu đạt, có thể không bằng lời, nhưng mọi sự biểu đạt đều như nhau.

Phật đã đặt tên DHAMMAPADA cho cuốn sách vĩ đại nhất của mình, và có những đối nghịch với những sự đối nghịch. Người cũng tràn ngập những điều đối nghịch đến mức, hãy tin tôi, ngoài tôi ra không ai có thể đánh bại Người. Tất nhiên Người hẳn sẽ rất vui nếu bị tôi đánh bại, giống như người cha rất vui khi tình cờ bị đứa trẻ của mình đánh bại. Đứa trẻ chiến thắng ngồi trên ngực cha mình, và người cha đơn giản cho phép nó chiến thắng. Tất cả các vị phật đều cho phép mình bị đánh bại bởi những người yêu họ. Tôi cho phép các môn đệ của tôi đánh bại tôi, vượt lên tôi. Không gì có thể vui hơn khi nhìn thấy môn đệ vượt lên mình.

Phật bắt đầu với tên DHAMMAPADA – chính vì vậy mà Người sẽ thực hiện: Người nói điều không thể nói, thốt ra điều không thể thốt ra. Người đã thốt ra điều không thể thốt ra, nó quá đẹp đến mức DHAMMAPADA giống như đỉnh Everest. Có những ngọn núi và những ngọn núi, nhưng không ngọn nào vươn tới đỉnh cao như Everest.

Tôi nhìn thấy Phật đang ngồi. Tôi cũng nhìn thấy những người khác nữa, những con người đẹp nhất, nhu mì nhất – không giống như Blavatsky đập vào ô cửa và hét lên, “Hãy để tôi vào!” Tôi nhìn thấy Mahavira trần trụi… bởi vì sự thật là trần trụi, đang đứng trong tuyệt đối tĩnh lặng. Các môn đệ của ông đang mang cuốn sách của ông, chứ không phải chính ông.

Thứ hai: SUTRAS JIN (KINH JIN) – các câu kinh của người Chinh phục. Jin là từ đẹp, nó có nghĩa là người chinh phục: con người đã chinh phục được chính mình.

Tôi đã nói về những câu kinh đó trong nhiều tập sách, nhưng chúng vẫn chưa được dịch sang tiếng Anh. Một điều tôi muốn nói: tôi tính cuốn KINH JIN vào phần tái bút.

Không có ai đã quá tĩnh lặng, cũng như quá trần trụi như Mahavira. Chỉ có sự tĩnh lặng mới có thể rất trần trụi. Nên nhớ tôi đang không nói khỏa thân, tôi đang nói trần trụi. Hai từ là hoàn toàn khác. ‘Khỏa thân’ là khiêu dâm; ‘trần trụi’ là tuyệt đối cởi mở, dễ tổn thương, không che đậy. Đứa trẻ không khỏa thân mà chỉ là trần trụi. Mahavira rất đẹp trong sự trần trụi của mình.

Người ta nói rằng ông ấy không bao giờ thuyết giảng kinh của mình cho bất kỳ ai; chỉ có những người thân mật ngồi bên ông để nghe những câu kinh đó bên trong mình. Họ chỉ đơn giản nghe. Đó là một trong những điều huyền diệu nhất… có một vòng tròn nội tại gồm mười một môn đệ thân mật quanh Mahavira, và khi tất cả họ đồng thời nghe thấy cùng một câu, thì họ nghĩ câu đó đáng giá để ghi lại, mặc dù Mahavira không nói bất kỳ điều gì một cách công khai, mà theo cách tinh tế nào đó, thông qua sự rung động.
 
KINH JIN được viết theo cách hoàn toàn khác với bất kỳ cuốn sách nào trên khắp thế giới. Bậc thầy vẫn im lặng và mười một môn đệ đồng thời nghe thấy – nhấn mạnh đến từ đồng thời – cùng một câu, và rồi họ ghi nó lại. Đó là cách KINH JIN ra đời. Sự ra đời của cuốn sách là như vậy đó! Người ta không thể hình dung sự khởi đầu tuyệt đẹp hơn, và những câu kinh chắc chắn chứa ánh sáng kỳ diệu nhất mà con người có khả năng, và toàn bộ khoa học về tự chinh phục mình. 

Thứ ba… tôi đã nhìn thấy người mà tôi không thể thừa nhận. “Thật kỳ lạ,” tôi nghĩ “trải qua hàng nghìn kiếp tôi đã là người du hành trên nhiều con đường, cùng với rất nhiều người, với nhiều trường phái. Người đàn ông này là ai? Ông ấy thật không thể được thừa nhận.” Ông ấy không phải là một bậc thầy, chính vì vậy mà tôi không nhận ra ông, nhưng ông ấy đủ nhu mì để được tính đến. Tôi đã luôn yêu sách của ông. Dù sao tôi cũng không thể tìm ra lý do tại sao tôi quên tính đến nó trong danh sách con số năm mươi mốt của tôi. Người đàn ông đó là một người Hy Lạp, Kazantzakis, tác giả của cuốn ZORBA HY LẠP. Thậm chí tôi không biết làm sao mà tên của ông ấy lại được công bố, nhưng ZORBA HY LẠP là một tác phẩm lớn. Người đàn ông sinh ra nó không phải là Phật hoặc không phải là Mahavira, nhưng lại có khả năng trở nên như vậy ở bất kỳ thời điểm nào. Ông ấy gần như sẵn sàng, chín muồi, chỉ đang chờ đợi thời vụ của mình đến.

Zorba là một trong những tình yêu của tôi. Tôi yêu những con người kỳ lạ. Zorba là con người rất kỳ lạ – thậm chí không phải là con người thực mà chỉ là hư cấu, nhưng với tôi thì ông ấy đã trở nên gần như thực, bởi vì ông ấy đại diện cho Epicurus, Charvaka, và tất cả những người duy vật trên thế giới. Ông ấy không đơn thuần đại diện cho họ mà còn đại diện cho hình thái tốt nhất của họ.

Có một lần Zorba đã nói với ông chủ mình, “Thưa ngài, ngài có mọi thứ nhưng ngài vẫn lỡ cuộc sống, bởi vì trong ngài không có một chút điên khùng. Nếu ngài có thể có một chút điên khùng thì ngài sẽ biết cuộc sống là gì.”
Tôi có thể hiểu ông ấy; không chỉ ông ấy mà tôi có thể hiểu tất cả những Zorba của mọi thời đại, bởi ‘một chút điên khùng’ của họ. Nhưng tôi không tin vào ‘một chút’ của bất kỳ thứ gì. Tôi cũng điên khùng như con người có thể, hoàn toàn điên khùng. Nếu bạn chỉ là một chút điên khùng, tất nhiên bạn sẽ hiểu chỉ một chút cuộc sống, nhưng như thế còn tốt hơn là không biết gì.

Zorba, Zorba tội nghiệp, Zorba thất học, chỉ là người lao động… chắc ông ấy phải là người cao lớn, tầm vóc cường tráng, và có một chút điên khùng. Nhưng ông ấy đã có lời khuyên tuyệt vời cho ông chủ mình: “Hãy là một chút điên khùng”, ông ấy nói. Tôi nói một chút điên khùng sẽ không ích gì; hãy là hoàn toàn điên khùng! Nhưng bạn có thể cho phép hoàn toàn điên khùng chỉ trong thiền, ngược lại bạn sẽ thành lập dị. Bạn sẽ không có khả năng thiêu đốt nó; ngược lại, nó sẽ thiêu đốt bạn. Nếu bạn không biết thiền là gì thì bạn sẽ bị thiêu cháy. Vì vậy mà tôi đã hình thành nên cái tên mới: Zorba Phật.

Zorba Phật là sự tổng hợp của tôi. Tôi yêu Kazantzakis vì ông đã sáng tạo ra một tác phẩm nghệ thuật vĩ đại, nhưng tôi cũng cảm thấy hối tiếc cho ông vì ông vẫn còn trong  tối. Kazantzakis, ông cần một ông chủ, một chút thiền; nếu không ông sẽ không biết cuộc sống là gì.
Thứ tư, tôi đã nhìn thấy một trong những người đồng nghiệp đẹp nhất. Tôi đã nói về ông, nhưng đã không nhắc đến ông trong danh sách năm mươi, danh sách tùy hứng. Tên của người đàn ông đó là al-Hillaj Mansoor. Al-Hillaj đã không viết cuốn sách nào mà chỉ có một số phát biểu, hoặc đúng hơn là một số tuyên bố. Những người như al-Hillaj chỉ tuyên bố, mà không vì bất kỳ sự ích kỷ nào – họ không có bất kỳ bản ngã nào, chính vì vậy mà họ tuyên bố, “ana’l haq!”

Ana’l haq! là tuyên bố của ông ấy và nó có nghĩa, “Ta là Thượng đế, và không có Thượng đế khác.” Người Hồi giáo không thể tha thứ cho ông ấy; họ đã giết ông. Nhưng liệu bạn có thể sát hại al-Hillaj không? Đó là điều không thể! Thậm chí trong lúc họ giết ông thì ông vẫn cười.

Một người nào đó đã hỏi, “Tại sao ông lại cười?”

Ông ấy trả lời, “Bởi vì các ông đang không giết ta, các ông chỉ đang giết cơ thể, và ta đã nói đi nói lại rằng ta không phải là cơ thể. Ana’l haq! Ta chính là Thượng đế.” Bây giờ những con người đó chính là muối của trái đất.

Al-Hillaj Mansoor đã không viết bất kỳ cuốn sách nào; chỉ một số tuyên bố của ông đã được tuyển tập bởi những người yêu ông và những người bạn của ông. Tôi sẽ không nói những người theo, bởi vì những người như al-Hillaj không chấp nhận những người theo, những kẻ bắt chước – họ chỉ chấp nhận những người yêu, những người bạn.

Tôi xin lỗi, tôi đã hoàn toàn quên ông. Với tôi điều đó thật không hay. Nhưng, al-Hillaj, ông nên hiểu khó khăn của tôi. Tôi đã đọc nhiều sách hơn ông đã từng đọc. Tôi đã đọc hơn một trăm nghìn cuốn. Bây giờ, để tìm ra chỉ năm mươi cuốn từ chúng thực sự là một việc khó. Tôi đã chọn chỉ một số ít, và lẽ tự nhiên tôi đã phải bỏ qua rất nhiều, và đã rơi lệ vì điều đó. Tôi cũng muốn chọn chúng… nhưng tôi đặt ông vào phần ghi chép tái bút.

Thứ năm: Người đàn ông này chỉ được rất ít người biết đến, vì lý do đơn giản là ông ấy chưa bao giờ viết và chưa bao giờ thuyết giảng, Mahakashyapa. Tất cả những điều được biết về ông chỉ là giai thoại này.

Vào một ngày, Phật xuất hiện ở buổi sáng thuyết giảng với bông sen trong tay. Người ngồi đó tĩnh lặng, ngắm nhìn ông hoa và không nói một lời. Đám đông mười nghìn sannyasin đã bối rối. Điều này chưa từng được nghe. Đầu tiên, trước đó Người chưa bao giờ xuất hiện với bất kỳ thứ gì trên tay, lần này lại là bông hoa sen; thứ hai, Người thường nói ngay, nhưng hôm nay nhiều giờ đã trôi qua nhưng Người chỉ nhìn bông hoa. Nhiều người nghĩ chắc Người đã bị điên. Chỉ có một người không đồng ý. Ông ấy đã cười vang. Người đàn ông đó là Mahakashyapa.

Phật ngước mắt lên, cười vang và gọi Mahaka lại để trao cho ông  bông hoa, và người nói với đám đông rằng bài thuyết pháp là bông hoa, “Tôi đã trao cho các bạn những gì các bạn được quyền, và tôi đã trao cho Mahakashyapa những gì ông ấy xứng đáng, và rất công bằng. Tôi đã thuyết giảng cho các bạn bằng lời trong nhiều năm, và các bạn chưa bao giờ hiểu. Hôm nay tôi đã nói trong tĩnh lặng, và tiếng cười của Mahakashyapa đã chứng tỏ ông ấy đã hiểu.” Với cách thức huyền bí này, người kế vị đã được tìm ra. Mahakashyapa đã trở thành người nối nghiệp của Phật. Một cách thức kỳ lạ…

Các môn đệ của Mahakashyapa đã viết một số điều về ông ấy và nó được cho là cuốn sách của ông. Nhưng thực ra thì ông không viết chúng, hoặc các môn đệ của ông đã không ký chúng. Họ là những người ẩn danh. Nhưng dù điều được viết là gì thì cũng tuyệt đẹp. Một vài đoạn, giống như những mảnh trăng tròn: nếu bạn có thể đặt chúng cùng nhau thì sẽ lại có trăng tròn: bí mật để đặt chúng cùng nhau là thiền.

Truyền thống mà Mahakashyapa đã theo là Zen. Ông ấy là người sáng lập đầu tiên của Zen, của dhyana. Thật kỳ lạ… không phải Phật mà là Mahakashyapa là người đầu tiên… Vì Phật đã thuyết giảng suốt bốn mươi năm, Mahakashyapa chưa bao giờ thuyết giảng; ông ấy chỉ tạo ra sự ồn ào, đó là tiếng cười. Nếu bạn có thể gọi đó là sự thuyết giảng, đó là vấn đề khác. Dù sao đó cũng là thuyết giảng – người ta nói rằng toàn bộ tồn tại là câu chuyện hài. Người ta nói với Phật, “Hài hước làm sao!”

Thời điểm bạn hiểu rằng toàn bộ tồn tại là một câu chuyện hài, bạn đã hiểu. Không có sự hiểu biết khác, không có sự chứng ngộ khác. Mọi thứ khác đều là giả.

Devageet, bạn có thể nhắc tôi con số được không? – bởi vì việc ghi chép sau khi tác giả qua đời, phần tái bút, tôi phải đưa ra con số mười. Bạn đã nói số mấy?

“Số sáu, thưa Osho.”

Tốt. Thật tuyệt rằng tôi đã nói phần ghi chép sau đó. Tôi thực sự chết, chính vì vậy mà tôi cho phép bạn gọi tôi là Người Linh thiêng. Nếu tôi chưa chết thì gọi tôi là người linh thiêng là không đúng. 

Từ ‘ghi chép sau khi tác giả qua đời’ đến với tôi một cách tình cờ. Tôi sẽ nói về phần tái bút, nhưng đôi khi sự thật lại xuất hiện một cách tình cờ. Nó không được chuẩn bị, sắp xếp, nó phun trào giống như núi lửa. Tôi sẽ không nói điều đó, nhưng nó tự xuất hiện. Sự thật có những cách thức của riêng nó. Tôi thực sự là người ghi chép sau khi tác giả qua đời; tôi đã chết từ lâu rồi.

Thứ sáu, tôi đã nhìn thấy Hermann Hesse. Ông ấy không phải là người chứng ngộ, nói gì về những người đã vượt lên chứng ngộ. Ông ấy chỉ là con người bình thường, nhưng với chuyến bay đầy thi hứng, ông ấy đã viết một trong những cuốn sách vĩ đại nhất trên thế giới, SIDDHARTHA.

Siddhartha là tên thực sự của Phật Gautam đã được cha mẹ đặt cho Người. Người trở nên được biết đến như là Phật Gautam. Gautam là tên gia đình của Người; Phật đơn giản có nghĩa là ‘người thức tỉnh’. Siddhartha là tên thực được cha mẹ đặt cho sau khi tham khảo các nhà chiêm tinh học. Đó là tên đẹp. Siddhartha cũng có nghĩa là ‘người đã đạt được ý nghĩa’. Siddha có nghĩa là ‘người đã đạt được’; artha có nghĩa là ‘ý nghĩa’. Tổng hợp lại Siddhartha có nghĩa ‘người đã đến với ý nghĩa của cuộc đời’. Các nhà chiêm tinh học, các bậc cha mẹ, mọi người đã trao cho Người tên chắc phải là những người rất trí huệ – nếu không phải là chứng ngộ thì cũng là trí huệ… ít nhất cũng là những người từng trải.

Cuốn SIDDHARTHA của Hermann Hesse lặp lại câu chuyện của Phật theo cách khác, nhưng trên cùng một bình diện, cùng một ý nghĩa. Không thể tin rằng Hermann Hesse có thể viết ra nó mà lại không thể trở thành một siddha. Ông ấy vẫn là người viết tầm thường – đúng, là người đã đoạt giải Nobel, nhưng điều đó không có nhiều ý nghĩa. Bạn không thể trao giải Nobel cho vị phật; vị đó sẽ cười và sẽ vứt nó đi. Nhưng cuốn sách lại rất tuyệt, và tôi tính cả nó.

Thứ bảy: Người ta biết rằng, với tôn giáo Do Thái rất truyền thống, rất chính thống từng có một số bậc thầy đã hoàn toàn chứng ngộ – một vài trong số đó đã vượt lên chứng ngộ. Một trong số họ là Baal Shem Tov. Tôi không thể tha thứ cho mình vì đã không tính đến ông, và không có ai để tôi có thể yêu cầu sự tha thứ.
Baal Shem Tov. Tov là tên thị trấn của ông. Tên của ông đơn giản là ‘Baal Shem của thị trấn Tov’; cho nên hãy để chúng ta gọi ông là Baal Shem. Tôi đã nói về ông bởi vì khi tôi nói về Hassidism, tôi đã không để lại bất kỳ điều cốt lõi nào mà không nói. Tôi đã nói về Đạo, Zen, Sufism, Hassidism. Tôi không thuộc về bất kỳ truyền thống nào cho nên tôi tự do di chuyển theo bất kỳ hướng nào tôi chọn. Tôi không cần bản đồ. Hãy để tôi nhắc lại bạn:

Vào
ra,
chim nước
không để lại dấu vết phía sau,
hoặc không cần sự hướng dẫn.

Baal Shem Tov đã không viết bất kỳ luận thuyết nào – luận thuyết là một từ xấu của thế giới huyền môn – nhưng ông ấy đã kể nhiều câu chuyện đẹp, quá đẹp đến mức tôi muốn kể lại cho bạn một trong chúng như là ví dụ để bạn có thể nếm trải phẩm chất của người đàn ông đó.

Một người phụ nữ đến với Baal Shem. Người phụ nữ đó không có con; cô ấy muốn có con. Cô ấy liên tục nói để gây ức chế Baal Shem, “Nếu ông ban phúc cho tôi mọi điều có thể. Xin hãy ban phúc cho tôi. Tôi muốn có đứa con.”

Cuối cùng, mệt mỏi – đúng, Baal Shem có thể mệt mỏi với người phụ nữ mè nheo – ông ấy nói, “Cô muốn con trai hay con gái?”

Người phụ nữ vô cùng hạnh phúc; cô ta nói, “Tất nhiên là con trai.”

Baal Shem nói, “Thế thì hãy nghe câu chuyện này. Mẹ tôi cũng không có con, và bà đã chọc tức và liên tục mè nheo vị giáo sĩ thị trấn ban phúc cho bà. Cuối cùng vị giáo sĩ nói, ‘Đầu tiên hãy mang đến cho tôi một chiếc mũ đẹp.’ Mẹ tôi đã làm một chiếc mũ đẹp và đi đến vị giáo sĩ.”

Chiếc mũ quá đẹp đến mức mẹ Baal Shem đã nói, “Tôi không muốn ông trao lại tôi bất kỳ thứ gì, chỉ nhìn ông đội chiếc mũ này cũng quá đẹp rồi. Tôi vô cùng hài lòng. Ông không gia ơn tôi, tôi không gia ơn ông. Cám ơn vị giáo sĩ.”

“Và mẹ tôi đã ra đi. Đó là cách bà trở nên có bầu,” Baal Shem nói, “và tôi đã ra đời.”

Người phụ nữ nói, “Tuyệt vời. Cho nên ngày mai tôi sẽ đến với một chiếc mũ đẹp.”

Ngày hôm sau cô ta quay lại với chiếc mũ tuyệt đẹp. Baal Shem đã chấp nhận mà thậm chí còn không nói “Cám ơn cô.” Người phụ nữ đã chờ và chờ, thế rồi cô ta nói, “Thế còn đứa trẻ thì sao?”

Baal Shem nói, “Hãy quên chuyện đứa trẻ đi! Chiếc mũ quá đẹp, tôi nợ ơn cô. Chắc tôi phải nói lời cám ơn cô. Cô còn nhớ câu chuyện tôi đã kể cho cô không? Người phụ nữ đã không đòi hỏi lại điều gì, chính vì vậy mà bà đã hình thành nên đứa trẻ, và là đứa trẻ như tôi” – giống như Baal Shem.

“Nhưng cô đã đến với ước nguyện có được một cái gì đó. Chỉ vì chiếc mũ này mà cô muốn đứa trẻ giống Baal Shem sao? Hãy quên hết chuyện đó đi,” ông ấy nói, “và đừng đến nữa – đừng bao giờ.”

Có nhiều điều có thể được nói thông qua những câu chuyện. Baal Shem đã nói vấn đề nền tảng: đừng đòi hỏi và sẽ được trao. Đừng đòi hỏi – đó là điều kiện cơ bản.

Hassidism khởi sinh từ những câu chuyện của Baal Shem là sự nở hoa tuyệt diệu nhất. Người Do Thái đã không thực hiện điều gì có thể so sánh với Hassidism. Hassidism là một dòng chảy nhỏ, nhưng nó vẫn còn sống động, vẫn còn tuôn chảy.

Thứ tám: Farid. Đây là người đàn ông mà tôi đã nói trước đây – nhưng không bằng tiếng Anh mà bằng tiếng Hindi. Farid, nhà huyền môn Sufi, cùng thời với Kabir, Nanak và những người khác. Tôi yêu ông ấy. Trong những bài ca của ông, ông gọi mình là Farida. Ông ấy luôn chỉ vào mình, chưa bao giờ vào người khác. Ông ấy luôn bắt đầu, “Farida, ông có nghe không? Farida, hãy thức tỉnh! Farida, hãy làm điều này, điều kia!” Trong tiếng Hindi, khi bạn sử dụng tên Farid, điều đó thể hiện sự tôn trọng. Khi bạn sử dụng tên Farida, điều đó không tôn trọng; người ta gọi những người đầy tớ như vậy. Farid gọi mình là Farida, tất nhiên vì ông ấy là bậc thầy; cơ thể là đầy tớ.

Vị vua nổi tiếng Akbar từng đến với Farid để nghe những bài ca của ông. Có một lần Akbar nhận được một món quà rất quý, chiếc kéo bằng vàng nạm những viên kim cương. Gudia hẳn cũng yêu thích nó – bất kỳ người phụ nữ nào cũng vậy. Akbar cũng thích nó, thích đến mức ông ấy nghĩ đó hẳn sẽ là món quà quý cho Farid. Ông ấy đến và trao món quà cho Farid. Farid nhìn chúng, quay chúng theo hướng này hướng kia, rồi trả lại cho Akbar và nói, “Với tôi cái này không có ích gì. Nếu ngài muốn trao cho tôi món quà thì hãy mang chiếc kim đến.”

Akbar đã bối rối. Ông ấy nói, “Tại sao lại là chiếc kim?”

Farid nói, “Bởi vì tính năng của chiếc kéo là cắt mọi thứ thành nhiều mảnh, và tính năng của chiếc kim là khâu mọi mảnh lại cùng nhau. Chức năng của tôi không phải là chiếc kéo, mà là chiếc kim. Tôi tổng hợp.”

Farid chắc đã không đồng ý với Sigmund Freud, hay với phân tâm học, bởi vì phân tâm học là chiếc kéo bằng vàng, liên tục cắt mọi thứ thành nhiều phần. Ông ấy chắc đã đồng ý với Assagioli và sự tổng hợp tâm lý. Liên kết lại, đặt mọi thứ cùng nhau, thành cái một. Bạn có nhìn thấy những giọt nước mắt của tôi không? Chúng dành cho Farid… farida… đúng, vì Farida. Không thể có sự tôn kính nào khác cho ông. Ông ấy sẽ hiểu những giọt nước mắt, chứ không phải chiếc kéo bằng vàng. Than ôi, nếu Akbar có thể quỳ xuống chân Farid và nhỏ những giọt nước mắt, điều đó hẳn sẽ là món quà thực sự đối với bậc thầy.  

Farid đã không viết cuốn sách, nhưng những bài ca của ông đã được những người của ông viết ra. Những bài ca của ông vô cùng đẹp, nhưng bạn phải nghe chúng bằng tiếng Punjab. Ông ấy đã sống ở Punjab, và những bài ca của ông bằng tiếng Punjab, không phải bằng tiếng Hindi. Tiếng Punjab rất khác với tiếng Hindi. Tiến Hindi ôn hòa, là ngôn ngữ của doanh nhân. Tiếng Punjab tựa như thanh gươm, là ngôn ngữ của người lính. Nó rất xuyên thấm. Khi bạn nghe những bài ca của Farid được hát bằng tiếng Punjab, trái tim bạn bắt đầu tan vỡ. 

Thứ chín. Tôi đang vội bởi vì thời gian của tôi sắp hết, hoặc đã hết, bởi vì tôi đã nhìn thấy Gudia đang đi vào. Buồn làm sao khi mà thời gian lại tuân theo cùng một quy luật, cho dù thời gian là của bạn hay của tôi. Không nên theo thứ tự thời gian, mà nên là tương đối. Thời gian của tôi không nên tuân theo cùng một quy luật, nó không nên thuộc về thới giới tương đối của Einstein. Nó nên là vô hạn. Nhưng tôi biết đó là điều không thể, cho nên tôi vội, và bạn biết khi tôi vội thì tôi cũng thư giãn.

Thứ chín, nhà thơ khác, ca sĩ khác, vũ công khác, có phẩm chất hoàn toàn khác: Shiva, và cuốn sách của ông là VIGYAN BHAIRAV TANTRA (MẬT TÔNG VIGYAN BHAIRAV). Tôi đã nói về nó. Nó rất mỏng, chỉ có một trăm mười hai câu kinh. Bạn có thể dễ dàng viết nó lên một trang giấy, hoặc nhiều nhất là hai trang. Tôi đã nói về nó trong năm tập, hàng nghìn trang – BOOK OF SECRETS (SÁCH CỦA NHỮNG BÍ MẬT). Tôi không thể nói bất kỳ cuốn nào khác lại súc tích như MẬT TÔNG VIGYAN BHAIRAV –  sách của Shiva. Mỗi một câu kinh tự nó là một phương pháp.

Devageet, xin đừng ngắt lời. Hãy để tôi kết thúc công việc của mình. Họ gọi người đàn ông trong ghế bành là bệnh nhân; họ nên dạy các bác sĩ trở thành bệnh nhân. Ashu, bạn không phải là bác sĩ nên bạn không cần lo lắng; đó là vấn đề khác. Nhìn xem, ngay cả Gudia cũng đang cười, với người phụ nữ Anh khuôn phép thì điều đó thật hiếm hoi!

Tốt. Cười luôn luôn tốt. Tôi yêu điều đó, nhưng tôi phải tiếp tục công việc của mình cho dù bạn cười hay khóc; không vấn đề gì với người đàn ông trong chiếc ghế bành này. Tôi cứng như đá và cũng mềm mại như bông sen, vì tôi là cả hai cùng nhau. Vì mục đích rõ ràng, tôi nói với bạn: đầu tiên tôi là đá; với điều này tôi sẽ đập vỡ hộp sọ bạn. Với bạn tôi không thể là bông sen, nhưng những gì bạn đang làm thì lại rất đẹp.

Thứ mười, tôi đã luôn có ý tưởng nói về Uma Swati và cuốn sách của ông. Uma Swati là nhà huyền môn, nhưng là nhà huyền môn rất khô khan – giống như môi tôi thời điểm này, không có bất kỳ hơi ẩm nào. Ông ấy đã viết rất khô khan nhưng là sự mô tả thực về điều tối thượng. Cuốn sách của ông ấy là TATVA SUTRAS (KINH TATVA). Tatva có nghĩa là ‘thực tại tối thượng’. Tat có nghĩa là ‘that’ – điều tối thượng. ‘This’ là ngay lập tức, và ‘that’ là điều tối thượng.

Devageet, xin đừng can thiệp. Tôi biết bạn biết nhiều về máy móc. Tôi cũng biết nhiều tâm thức bạn – và đó là những vấn đề.

KINH TATVA tuyệt đẹp và tôi đã muốn nói về nó nhưng cứ trì hoãn mãi. Nó quá toán học, giống như SAMAYASAR của Kundkunda. Tất cả các nhà huyền môn Jain đều như vậy – khô khan, tuyệt đối khô khan.
Laxmi đã thực sự chọn một nơi – Kutch! Mahavira, Kundkunda, Uma Swati, tất cả những người đồng nghiệp đó đã vui thích khi ở Kutch. Nhưng với tôi, thật không may! Tôi luôn muốn ở Himalaya, nhưng vì quyền lợi của mọi người mà tôi phải bỏ ý tưởng ở Himalaya.

Điều đó đã không xảy ra với Phật, Bồ Đề Đạt Ma, Baso; điều đó đã không xảy ra với Omar Khayyam, Kahlil Gibran, Mikhail Naimy, nhưng điều đó đã xảy ra với tôi. Tôi biết chắc phải có bí mật trong nó. Chỉ có thể là tôi phải biến Kutch cũng đẹp như Himalaya. Một điều là chắc chắn: dù tôi ở bất kỳ đâu tôi cũng sẽ tạo ra nơi chốn đẹp nhất trên thế gian, dù thử thách như thế nào.

Thứ mười một, và là cuốn cuối cùng trong phần tái bút… ý tôi nói là của hôm nay. Con người không bao giờ biết về ngày mai. Cái cuối cùng là một cái gì đó quá đẹp đến mức chắc tôi đã phải thực sự lành mạnh để quên nó. Lưu ý bạn, tôi đang không nói sự điên khùng, tôi đang nói sự lành mạnh. Nếu tôi đủ điên khùng thì sẽ không có khả năng quên nó. Thế thì nó sẽ là đầu tiên để nhớ chứ không phải là cuối cùng. Đó là THE SONGS OF NAROPA (BÀI CA CỦA NAROPA).

Tôi chưa bao giờ nói về nó bởi vì tôi chưa bao giờ nghĩ rằng lại có thể nói điều gì về nó, nhưng nó đã trong tim tôi. Tôi nhắc đến nó để những người yêu tôi nên bắt đầu tìm kiếm nó… bài thơ, bài ca, điệu vũ của Naropa. Và nó cũng là của tôi nữa.

Om Mani Padme Hum
Đá quý trong hoa sen.
Cám ơn cả hai, bởi tất cả niềm vui của tôi.


No comments:

Post a Comment