June 28, 2011

George Orwell – 1984 (kì 3)


 Kỉ niệm 108 năm ngày sinh George Orwell (25.06.1903 – 25.06.2008)

IV.

Winston thường có thói quen thở dài một cách vô ý thức, dù đang đứng ngay gần màn vô tuyến, mỗi khi bắt đầu một ngày làm việc mới, rồi anh kéo cái máy ghi lại gần, thổi đám bụi bám trên micro và lấy kính ra đeo. Sau đó anh giở bốn cuộn giấy nhỏ vừa lăn từ một cái ống điều kiển bằng khí nén, nằm ở bên phải bàn làm việc, ra và ghim lại với nhau.

Trên tường trong ngăn có ba cái lỗ. Ở bên phải máy ghi là ống khí nén nhỏ dùng để chuyển những tờ giấy giao nhiệm vụ và một lỗ to hơn để chuyển báo chí, còn trên bức tường bên cạnh, có thể với tay tới là một cái khe hình chữ nhật, dài, chắn lưới thép. Cái này dùng để hủy giấy. Trong tòa nhà của Bộ có hàng ngàn, có thể là hàng chục ngàn cái khe như vậy; ngăn nào cũng có đã đành, mà ngoài hành lang cứ vài bước lại có một cái. Không hiểu tại sao người ta lại gọi đấy là hang nhớ. Khi thấy một tài liệu nào đó cần phải hủy, hay khi trông thấy một mảnh giấy rơi bên cạnh thì người ta phải tự động nhặt lên, rồi thả vào cái khe gần nhất, nó sẽ bị dòng khí nóng cuộn đến những chiếc lò đốt khổng lồ nằm bí mật trong tòa nhà.

Winston đọc bốn mảnh giấy mà anh vừa giở ra. Mỗi mảnh ghi một nhiệm vụ chỉ một đến hai dòng bằng tiếng lóng viết tắt – không phải Ngômo nhưng đa phần là Ngômo - thứ tiếng lóng dùng trong nội bộ. Nhiệm vụ như sau:
times 17.3.84 A.C. nói tường thuật sai châu Phi chính xác hóa.
times 19.12.83 kế họach quí IV 83 in sai kiểm tra hiện nay
times 14.2.84 bôno trích sai chính xác hóa
times 3.12.83 tường thuật nhật lệnh A.C. sai đôi nói đến không ai viết lại

Winston để tờ nhiệm vụ thứ tư sang một bên. Đây là nhiệm vụ phức tạp và quan trọng, tốt nhất là làm sau cùng. Ba cái còn lại là những nhiệm vụ thường nhật, tuy cái thứ hai có thể tốn nhiều thì giờ tìm kiếm số liệu.

Winston bấm trên màn vô tuyến các “số cũ” để tìm các số báo Times cần thiết và chỉ mấy phút sau ống khí nén đã chuyển đến các số báo anh cần. Nhiệm vụ của anh liên quan đến các bài báo hoặc tin tức đã đăng mà vì lí do nào đó phải sửa lại, hay nói theo ngôn ngữ chính thức là chính xác hóa. Thí dụ tờ Times ngày 17 tháng 3 tường thuật bài nói chuyện của Anh Cả ngày hôm trước, trong đó Anh tiên đoán rằng mặt trận Nam Ấn sẽ yên tĩnh, quân Eurasia sẽ tấn công trên lục địa Bắc Phi. Nhưng hóa ra Bộ Chỉ Huy Tối Cao Eurasia đã mở mặt trận ở Nam Ấn, trong khi ở Bắc Phi không hề có động tĩnh gì. Như vậy là phải viết lại một đoạn trong bài nói chuyện của Anh Cả sao cho tiên đoán của Anh phù hợp với thực tế chiến trường. Hay số ra ngày 19 tháng 12 năm 83 công bố dự báo kế hoạch sản xuất các mặt hàng tiêu dùng trong quí tư năm 83 hay quí thứ sáu của Kế Họach Ba Năm Lần Thứ Chín. Số báo ra ngày hôm nay đăng các số liệu sản xuất thực tế cho thấy dự báo là hoàn toàn sai. Winston có trách nhiệm sửa lại các số liệu ban đầu sao cho trùng khớp với số đăng hôm nay. Nhiệm vụ thứ ba cực kì đơn giản, có thể hoàn thành ngay trong một phút. Số là tháng hai vừa qua Bôno hứa (theo ngôn ngữ chính thức là long trọng cam kết) sẽ không giảm khẩu phần chocolate trong năm 1984. Nhưng thực ra, như anh đã biết, khẩu phần sẽ giảm từ ba mươi gram xuống còn hai mươi ngay cuối tuần này. Anh chỉ việc thay lời hứa ban đầu bằng thông báo rằng khẩu phần chocolate có thể bị giảm vào tháng tư là xong.

Sau khi làm xong, Winston sẽ đính những tờ sửa chữa do máy ghi lại vào số báo Times phù hợp rồi đưa vào ống khí nén. Sau đó, bằng một động tác vô thức, anh vò tờ ghi nhiệm vụ cũng như tất cả những ghi chép có liên quan và vất vào hang nhớ, ngọn lửa sẽ làm phần việc còn lại.

Anh không biết cụ thể công việc trong cái mê cung đằng sau những đường ống khí nén này, anh chỉ biết một cách đại khái thôi. Sau khi những hiệu chỉnh, sửa chữa cho một số báo Times nào đó đã được thu thập đủ và kiểm tra kĩ thì số báo đó sẽ được in lại, số cũ bị hủy, tờ mới in được đưa vào lưu trữ thay cho tờ cũ. Không chỉ báo mà cả sách, tạp chí, khẩu hiệu, truyền đơn, phim ảnh, đĩa ghi âm, tranh vui; tất cả các lọai hình văn học nghệ thuật và tài liệu có giá trị về chính trị hay tư tưởng đều phải cải biến như thế cả. Từng ngày, gần như từng phút, quá khứ được điều chỉnh cho phú hợp với hiện tại. Như vậy có thể chứng minh tất cả các dự đoán của Đảng đều đúng bằng giấy trắng mực đen hẳn họi; không được để lại bất kì mẩu tin hay ý kiến nào mâu thuẫn với nhu cầu của hiện tại. Lịch sử giống như được viết trên một tấm da, có thể cạo đi và viết lại bao nhiêu lần cũng được. Sau đó có tài thánh cũng không chứng minh được đấy là tài liệu giả.

Trong phòng đông nhất của Ban Tài Liệu, lớn hơn phòng của Winston nhiều, có vô số người làm việc, họ chỉ có mỗi nhiệm vụ là tìm và thu thập tất cả các cuốn sách, các tờ báo và các tài liệu đã được thay thế, cần phải hủy. Nhiều số Times, do thay đổi liên kết về chính trị hay do đã đăng những tiên đoán sai lầm của Anh Cả mà phải in đi in lại, có thể cả chục lần, vẫn ghi ngày tháng cũ, được xếp trong kho lưu trữ, không có một bản phủ nhận nào tồn tại trên đời. Sách cũng được viết đi viết lại như thế mà không hề có dòng ghi chú nào về việc sửa chữa cả. Ngay cả trên những tờ hướng dẫn nhiệm vụ mà Winston nhận được mỗi ngày, anh phải hủy ngay sau khi hoàn thành công việc, cũng không có câu nào nói đến hay ngụ ý việc giả mạo: chỉ là trích dẫn sai, nhầm lẫn, in nhầm, nói nhầm cần phải sửa lại cho chính xác mà thôi.

Nhưng thực ra, anh vừa sửa các số liệu của Bộ Ấm No vừa nghĩ, đây cũng không phải là giả mạo. Đơn giản chỉ là thay một tài liệu nhảm nhí này bằng một tài liệu nhảm nhí khác mà thôi. Đa số tài liệu mà người ta phải xử lí chẳng có một tí quan hệ nào với thế giới hiện thực, ngay cả quan hệ với cái thế giới giả dối này cũng không nốt. Số liệu lúc đầu cũng như số liệu đã hiệu chỉnh đều là sản phẩm của trí tưởng tượng. Thường là phải tự nghĩ ra. Thí dụ Bộ Ấm No dự kiến trong quí tư sẽ sản xuất 145 triệu đôi giày. Bây giờ người ta thông báo là đã sản xuất được 62 triệu đôi. Nhưng Winston, khi hiệu chỉnh kế hoạch, lại viết 57 triệu để có thể tuyên bố, như mọi khi, là đã hoàn thành vượt mức kế hoạch. Nhưng thực ra 62 triệu hay 57 triệu hay 145 triệu thì cũng thế mà thôi, số nào cũng gần sự thật và có thể cũng cách xa sự thật như nhau. Rất có thể là chẳng sản xuất được một đôi nào. Cũng có khả năng là chẳng ai biết đã sản xuất được bao nhiêu đôi và chủ yếu là chẳng ai cần biết làm gì. Tất cả những điều người ta biết là: quí nào cũng sản xuất được hằng hà sa số giày, nhưng có thể một nửa dân số Oceania vẫn phải đi chân đất. Mọi tài liệu, từ lớn chí bé, đều như thế hết. Trong cái thế giới huyễn hoặc này tất cả mọi thứ đều trở nên mờ ảo và cuối cùng đến ngay ngày tháng cũng không làm sao xác định được nữa.

Winston nhìn sang ngăn bên kia hành lang. Một người đàn ông dáng nhỏ bé, nghiêm cẩn, cằm lún phún râu tên là Tillotson đang chăm chú vào công việc, tờ báo mở rộng đặt trên đầu gối, miệng gí sát vào máy ghi. Anh ta làm ra vẻ bí mật, những lời anh ta nói không thể lọt ra ngoài, chỉ một mình cái máy ghi nghe được mà thôi. Anh ta bỗng ngẩng đầu lên, đôi kính loé lên môt luồng ánh sáng thù địch hướng thẳng vào Winston.

Winston gần như không quen Tilloton và cũng không biết anh ta làm gì. Người của Phòng Tài Liệu thường không thích nói về công việc của mình. Đấy là một phòng dài, không cửa sổ, trong đó có hai dãy buồng ngăn nhỏ luôn luôn có tiếng lật giấy sột soạt, tiếng thì thầm đọc vào máy ghi là khoảng một tá nhân viên mà Winston vẫn trông thấy đi qua đi lại trong hành lang và vung tay múa chân trong Hai Phút Hận Thù nhưng không biết tên. Anh biết trong ngăn bên cạnh có người phụ nữ nhỏ nhắn, tóc hung, suốt ngày này sang ngày khác bà ta chỉ có một nhiệm vụ là tìm và xóa tên những người đã bị bốc hơi nghĩa là những người được coi là chưa từng có mặt trên cõi đời này. Về một khía cạnh nào đó thì công việc này phù hợp với bà ta vì chính chồng bà cũng bị bốc hơi khoảng hai năm về trước. Cách chỗ anh mấy ngăn là một người hoà nhã, bất lực, mơ mộng, tên là Ampleforth có tài là viết những bài ngắn, có vần điệu chuyên làm những bài vè xuyên tạc, được gọi là thơ, những bài hơi có vấn đề về mặt tư tưởng nhưng không thể loại khỏi các tuyển tập văn học. Nhưng cái phòng này với khoảng năm mươi hay gần năm mươi nhân viên cũng mới chỉ là một tiểu ban, một tế bào trong cái cơ thể phức tạp là Phòng tài Liệu mà thôi. Đằng kia, bên trên, bên dưới là rất nhiều người đang tham gia giải quyết hàng núi công việc. Có những xưởng in lớn với các biên tập viên riêng, chuyên gia in ấn riêng và cả những phòng trang bị tối tân để làm tranh ảnh giả. Có cả phòng chương trình vô tuyến với các kĩ sư, đạo diễn và các nhóm diễn viên chuyên giả giọng người khác nữa. Có một đội quân đông đảo các thư kí có nhiệm vụ liệt kê các cuốn sách và các ấn phẩm định kì cần kiểm tra. Ngoài ra còn có những kho cực kì lớn lưu trữ các tài liệu đã được sửa chữa và những lò đốt bí mật chuyên thiêu hủy các văn bản gốc nữa. Và ở đâu đó, không ai biết ở đâu, là bộ óc, là cơ quan lãnh đạo chuyên soạn thảo đường lối nói rằng phần này của quá khứ phải được giữ, phần này phải làm giả, phần này thì xoá sổ hoàn toàn.

Thế mà Ban Tài Liệu cũng chỉ là một nhánh của Bộ Sự Thật thôi, nhiệm vụ chủ yếu của Bộ không phải là tái tạo quá khứ mà là cung cấp cho các công dân Oceania sách báo, phim ảnh, sách giáo khoa, chương trình truyền hình, kịch nghệ, tiểu thuyết nghĩa là tất cả các loại thông tin, hướng dẫn hoặc giải trí, từ một bức tượng cho đến khẩu hiệu chính trị, từ một bài thơ cho đến luận thuyết sinh học, từ cuốn sách dạy đánh vần cho đến cuốn từ điển Ngômo. Bộ không chỉ có nhiệm vụ thoả mãn các nhu cầu rất đa dạng của Đảng mà còn làm ra các sản phẩm tương tự, tất nhiên là loại hai, cho nhu cầu của bọn cu li nữa. Có một loạt phòng ban chuyên về văn chương, nhạc, kịch và các trò giải trí khác cho bọn cu li. Các phòng ban này in những tờ báo nhảm nhí chuyên về thể thao, tội phạm, thuật chiêm tinh, tiểu thuyết tình cảm lãng mãn giá năm xu, sản xuất các phim đầy cảnh làm tình, những bài hát uỷ mị được những máy gọi là máy chế thơ viết. Có cả một tiểu ban gọi theo Ngômo là Phimheo chuyên sản xuất các loại phim ảnh khiêu dâm hạ đẳng, các phim này được đóng gói kĩ rồi mới chuyển ra ngoài, các đảng viên bên ngoài các phòng chuyên trách bị cấm tuyệt đối không được xem những phim kiểu đó.

Trong khi Winston làm thì lại có thêm ba tờ giấy ghi nhiệm vụ nữa được ống khí nén mang tới, nhưng đây là những việc dễ nên anh đã hoàn thành xong trước khi tham gia Hai Phút Hận Thù. Sau đó anh quay lại ngăn và lấy cuốn từ điển Ngômo từ trên giá sách xuống, anh đặt cái máy ghi sang một bên, đem kính ra lau và bắt đầu giải quyết nhiệm vụ chính của ngày hôm đó.

Thú vui lớn nhất trong đời Winston chính là công việc. Đa phần công việc dĩ nhiên là những chuyện thường nhật chán ngắt, nhưng đôi khi cũng có những việc khó và phức tạp phải dành toàn tâm toàn ý thì mới làm được, giống như giải một bài toán khó vậy, đấy là những vụ giả mạo mà muốn thực hiện thì phải nắm vững các nguyên tắc của Chuanh cũng như phải đánh giá đúng thái độ của Đảng về vấn đề đó nữa, nói nôm na là Đảng thích nghe gì. Ba cái vụ này thì Winston khá rành. Đôi khi anh còn được giao nhiệm vụ chữa cả những bai xã luận viết hoàn toàn bằng Ngômo trên tờ Times nữa cơ. Anh mở tờ giấy giao nhiệm vụ mà lúc sáng anh đã xếp sang bên cạnh:

times 3.12.83 tường thuật nhật lệnh A.C. sai đôi nói đến không ai viết lại

Theo ngôn ngữ cũ (tiếng Anh chuẩn) thì nội dung đại khái như sau:

Times, Số ra ngày 3 tháng 12 năm 1983 đã tường thuật sai nghiêm trọng nhật lệnh của Anh Cả, trong đó có nhắc tới những người không hề tồn tại. Viết lại toàn bộ rồi trình cho cấp trên trước khi đưa vào lưu trữ.

Winston đọc lại bài báo sai lầm. Toàn bộ nhật lệnh của Anh Cả ngày hôm đó là để ca ngợi một tổ chức gọi là FFCC chuyên cung cấp thuốc lá và các vật dụng khác cho thuỷ thủ trên các Pháo Đài Nổi. Bản nhật lệnh đặc biệt khen ngợi một đồng chí tên là Wither, nhà hoạt động nổi tiếng của Đảng Nội Bộ, dịp này đồng chí được tặng Huân Chương Chiến Công hạng II.

Ba tháng sau FFCC bị giải tán một cách bất thình lình, không thấy một lí do nào được đưa ra cả. Wither và các cộng sự bị thất sủng mặc dù báo chí hay màn vô tuyến không đả động gì đến chuyện này. Cũng là việc bình thường vì những nhà hoạt động chính trị thất sủng thường ít khi bị đưa ra toà hay lên án công khai. Các cuộc thanh trừng hàng loạt, đụng chạm đến hàng ngàn người, các phiên toà xét xử công khai những tên phản bội và tội phạm tư tưởng với những lời thú tội đáng khinh và sau đó bị đem đi hành quyết là những vụ mẫu, vài năm mới có một lần. Những người không được lòng Đảng thường là biến mất một cách bí hiểm, không còn có ai nghe nói đến họ nữa. Không ai biết chuyện gì đã xảy ra với họ. Có thể một số người vẫn còn sống. Chừng ba mươi người quen của Winston, chưa kể bố mẹ anh, đã biến mất như thế trong những khoảng thời gian khác nhau.

Winston lấy cái kẹp giấy gãi mũi. Phía bên kia, đồng chí Tillotson vẫn tiếp tục bí mật đọc vào micro của cái máy ghi. Anh ta ngẩng đầu lên: đôi mắt kính lại phát ra một luồng ánh sáng thù địch. Winston tự hỏi không biết đồng chí Tillotson có làm cùng công việc như mình không. Hoàn toàn có thể như thế. Không bao giờ người ta giao công việc tế nhị cỡ này cho một người duy nhất, nhưng mặt khác, nếu giao cho một ủy ban thì lại có nghĩa là công nhận có sự giả mạo. Rất có khả năng là có đến cả chục người đang đua nhau chấp bút cho bài diễn văn giả định của Anh Cả. Sau đó một cán bộ lãnh đạo trong Đảng Nội Bộ sẽ chọn phương án thích hợp, sẽ hiệu đính lại rồi đưa cho rất nhiều người khác tham khảo, cuối cùng điều bịa đặt đó sẽ được chuyển vào kho lư trữ và trở thành sự thật.

Winston không biết vì sao Wither bị thất sủng. Có thể là do tham nhũng, cũng có thể là do thiếu hiệu năng. Cũng có thể là Anh Cả thấy cần phải loại bỏ một cộng sự đã trở nên quá nổi tiếng. Cũng có thể là Wither hay một người gần gũi nào đó của ông bị nghi là đã đi chệch đường lối chung. Mà có nhiều khả năng là thanh trừng và bốc hơi là một phần không thể thiếu của bộ máy cai trị. Đầu mối duy nhất nằm trong cụm từ "nói đến không ai", chứng tỏ Wither đã chết. Bị bắt không phải lúc nào cũng có nghĩa là sẽ bị giết ngay. Đôi khi những người bị bắt cũng được thả cho tự do khoảng một hai năm rồi mới bị đem đi hành quyết. Đôi khi có người tưởng là đã chết từ lâu lại hiện lên như một con ma trong một phiên tòa công khai, hắn thú nhận tội lỗi liên quan đến hàng trăm người, sau đó mới biến mất, lần này thì vĩnh viễn. Nhưng Wither đã là "không ai". Ông ta không tồn tại nữa, ông ta chưa bao giờ tồn tại cả. Winston cho rằng sửa lại bài diễn văn của Anh Cả thôi chưa đủ. Tốt nhất là viết một bài hoàn toàn khác với đề tài ban đầu.

Anh có thể viết một bài diễn văn vạch trần những tên phản bội và những tên tội phạm tư tưởng, chuyện đó không có gì mới; còn việc sáng tác ra một chiến thắng trên mặt trận hay hoàn thành vượt mức Kế Hoạch Ba Năm Lần Thứ Chín lại làm cho tài liệu thành phức tạp hơn rất nhiều. Tốt nhất là một câu chuyện bịa đặt hoàn toàn. Bất ngờ trong đầu anh hiện lên, một cách sống động, y như thật, hình ảnh đồng chí Ogilvy, người chiến sĩ vừa hi sinh anh dũng trên mặt trận. Đôi khi Anh Cả cũng công bố nhật lệnh ca ngợi một đảng viên bình thường và nhấn mạnh rằng cuộc đời và sự hi sinh của người đó là một tấm gương cho toàn dân noi theo. Hôm nay anh sẽ nói về đồng chí Ogilvy. Thực ra chưa từng có người nào tên là Ogilvy cả, nhưng chỉ cần bịa ra vài dòng kèm mấy tấm ảnh giả là xong.

Winston suy nghĩ một lúc rồi kéo cái máy ghi lại gần và đọc, theo đúng kiểu của Anh Cả: dứt khoát và phô trương, bằng cách đặt những câu hỏi và lập tức trả lời ("Chúng ta rút ra được bài học gì từ sự kiện vừa nêu, thưa các đồng chí? Bài học, đồng thời cũng là nguyên lí cơ bản của Chuanh, là…v…v..) dễ bắt chước lắm.

Ngay từ năm lên ba đồng chí Ogilvy đã chỉ thích chơi với súng, trống và máy bay lên thẳng. Năm lên sáu, nghĩa là sớm hơn qui định một năm, đây là trường hợp đặc biệt, đồng chí được kết nạp vào đội Tình Báo và lên chín tuổi thì trở thành trung đội trưởng. Năm mười một tuổi đồng chí đã báo cáo với Cảnh Sát Tư Tưởng về những lời phát biểu mà đồng chí cho là sai trái của bác mình. Năm mười bảy tuổi đồng chí trở thành chủ tịch Hội Thanh Niên Chống Tình Dục huyện. Năm mười chín tuổi đồng chí đã thiết kế được một loại lựu đạn được Bộ Hoà Bình chấp nhận và ngay lần thử đầu tiên đã giết chết ba mươi mốt tên tù binh Eurasia. Đồng chí đã hi sinh khi vừa tròn hai mươi ba tuổi. Khi đó đồng chí đang bay trên Ấn Độ Dương, mang theo những tin tức cực kì quan trọng, thì bị máy bay địch tấn công, đồng chí đã buộc một khẩu súng máy vào mình và nhảy ra khỏi máy bay và chìm xuống đáy biển cũng với tin mật, không để lọt vào tay địch, chúng ta, Anh Cả nói, cảm phục tinh thần hi sinh của đồng chí. Anh Cả nói cuộc đời của đồng chí Ogilvy rất trong sáng và được dành trọn cho lí tưởng. Đồng chí Ogilvy không uống rượu, không hút thuốc, không biết một thú vui nào khác ngoài việc luyện tập trong khu thể thao, đồng chí cho rằng gia đình sẽ là trở ngại đối với công tác mà đồng chí sẵn sàng phục vụ hai mươi bốn giờ mỗi ngày cho nên đồng chí đã thề sẽ không lấy vợ. Đồng chí không biết đến đề tài nói chuyện nào khác ngoài các nguyên lí của Chuanh, không có mục đích nào khác ngoài mục đích tiêu diệt quân Eurasia, săn lùng những tên gián điệp, những tên phá hoại, những tên tội phạm tư tưởng và nói chung là những tên phản bội.

Winston cứ suy nghĩ mãi về việc có nên thưởng cho đồng chí Ogilvy Huân Chương Chiến Công hay không, nhưng cuối cùng quyết định không thưởng bởi vì thưởng sẽ kéo theo nhiều rắc rối, phải đối chiếu với nhiều tài liệu khác nữa.

Anh lại nhìn sang phía đối thủ. Không hiểu sao anh tin rằng Tillotson cũng đang làm công việc giống hệt như mình. Không thể nào biết được cuối cùng bài nào sẽ được chấp nhận, nhưng anh tin tưởng tuyệt đối rằng đấy là bài của anh. Trước đây một giờ chưa có đồng chí Ogilvy, nhưng nay đồng chí đã là một thực thể. Điều làm Winston ấn tượng nhất là có thể tạo ra người chết chứ không thể tạo ra được người sống. Đồng chí Ogilvy chưa từng sống trong thời hiện tại, nhưng nay đã sống trong thời quá khứ và khi hành động giả mạo này bị lãng quên thì anh ta sẽ sống một các chân xác và không thể nào phủ nhận được, giống như Charlemagne [1] hay Julius Ceasar [2] vậy.


V.

Trong cái căng-tin thấp tè nằm sâu dưới lòng đất, dòng người xếp hàng ăn trưa chầm chậm nhích dần từng bước. Phòng ăn đầy người và ồn ào kinh khủng. Mùi thịt hầm bốc ra từ cái bếp phía sau quầy cộng với mùi han đồng chua chua cũng không át nổi mùi rượu Gin Chiến Thắng. Ở phía cuối căn phòng có một quầy bán rượu, trông gần như một cái hốc xây lọt vào tường, có bán loại rượu này, mười xu một li.

“Đúng là người tôi đang cần”, có tiếng nói ngay phía sau Winston.

Anh quay lại. Đấy là Syme, bạn anh, đang làm trong Ban Nghiên Cứu. Có thể từ "bạn” không được chính xác lắm. Bây giờ không ai có bạn, bây giờ chỉ có đồng chí: nhưng tiếp xúc với một số đồng chí thấy dễ chịu hơn một số đồng chí khác. Syme là một nhà ngôn ngữ học, chuyên gia về Ngômo. Anh tham gia trong một nhóm rất đông chuyên gia biên tập Lần In Thứ Mười Một cuốn Từ Điển Ngômo. Anh là một người nhỏ bé, nhỏ hơn cả Winston, tóc đen, mắt vừa to vừa lồi, đượm buồn và đầy vẻ nhạo báng nên khi nói chuyện cứ như đang nhìn xoáy vào người ta vậy.

“Tớ muốn hỏi cậu có lưỡi dao cạo râu nào không?”, anh ta nói.
“Không!”, Winston vội đáp như người mắc lỗi. “Tớ đã tìm khắp. Không đâu có cả.”

Ai cũng hỏi dao cạo râu. Thực ra anh vẫn còn hai cái dự trữ. Đã mấy tháng nay không có dao cạo râu rồi. Trong các cửa hàng của Đảng lúc nào cũng thiếu hụt, không thứ này thì thứ kia. Khi thì cúc, khi thì chỉ, khi thì dây giày còn bây giờ là dao cạo. Chỉ có thể mua một cách lén lút, đấy là nếu may mà gặp, ở thị trường "tự do".

“Tớ dùng có một cái đã sáu tuần nay rồi”, anh nói dối.

Hàng người chuyển dần lên phía trước. Mỗi người nhặt một chiếc mâm sắt dính đầy mỡ xếp chồng lên nhau ở phía cuối quầy hàng.

“Hôm qua cậu có đi xem treo cổ bọn tù binh không?”, Syme hỏi.

“Tớ phải làm”, Winston đáp. “Chắc là tớ sẽ xem trong rạp.”

“Phí của giời”, Syme nói.

Đôi mắt đầy vẻ nhạo báng của anh ta lướt qua mặt Winston. "Tôi biết" - ánh mắt dường như muốn nói - "Tôi đã đi guốc trong bụng anh rồi. Tôi biết rõ vì sao anh không đi xem treo cổ bọn tù binh rồi".

Syme là một người chính thống cực đoan nhất, theo kiểu tri thức. Anh có thể kể lại với giọng hể hả đầy phản cảm về những vụ oanh kích bằng máy bay trực thăng vào làng mạc của kẻ thù, những phiên toà xét xử và những lời thú tội của bọn tội phạm tư tưởng, những vụ hành quyết dưới tầng hầm Bộ Tình Yêu. Khi đàm đạo phải cố gắng tránh những đề tài này và nếu có thể được thì lái về chuyện Ngômo, lĩnh vực anh ta thông thạo và tỏ ra rât hấp dẫn. Winston khẽ quay đầu sang bên để tránh cặp mắt đen to đang chăm chú nhìn mình.

“Vụ hành quyết phải nói là đẹp”, Syme nói đầy vẻ mộng mơ. “Khi thấy họ trói chân chúng lại tớ đã nghĩ thế thì mất thú. Tớ thích xem chúng giẫy giụa cơ. Nhưng khoái nhất là đoạn cuối, lưỡi thè ra, màu xanh, xanh lè. Tớ thích cảnh đó nhất.”

“Tiếp theo, xin mời”, một mụ cu li mặc áo choàng trắng, tay cầm một cái thìa hét toáng lên.

Winston và Syme cùng đưa mâm ra. Cả hai được nhận ngay suất ăn trưa: một bát thịt hầm, một lát bánh mì, một miếng phó mát, một tách cà phê Chiến Thắng và một viên đường hoá học.

“Có cái bàn trống ở gần màn vô tuyến kìa.”, Syme nói. “Tiện thể lấy luôn li Gin.”

Gin được rót vào cốc sứ không có tay cầm. Hai người lách qua căn phòng chật cứng, họ xếp đồ ăn lên cái bàn sắt, ở một góc bàn có ít nước sốt đổ, trông bẩn như có người vừa nôn ra vậy. Winston cầm cốc rượu Gin lên, nhưng anh dừng lại vài giây để lấy đà và uống một hơi cạn hết cốc rượu ngầy ngậy mùi dầu thực vật. Anh lấy tay chùi nước mắt và bỗng nhận thấy là rất đói. Anh nuốt từng thìa đầy nước sốt trong đó thỉnh thoảng cũng thấy những cục vuông vuông mềm nhũn, màu hồng, có thể là thịt. Không ai nói câu nào trước khi ăn hết bát thịt hầm. Phía sau, bên trái Winston một người nào đó đang xổ từng tràng, không ngưng nghỉ, giọng như vịt kêu, át cả tiếng ồn xung quanh.

“Cuốn từ điển đến đâu rồi”, Winston phải nói to để át tiếng ồn.

Hơi chậm”, Syme nói. “Tớ đang làm phần tính từ. Hấp dẫn lắm.”

Vừa nói đến Ngômo là anh sôi nổi lên ngay. Đẩy cái bát sang một bên, một tay cầm bánh mì một tay cầm miếng pho mát, anh nhoài người qua bàn để có thể nói mà không cần lên giọng.

“Lần in thứ mười một là lần cuối cùng đấy”, anh nói. “Chúng tớ sẽ tạo cho ngôn ngữ một hình thức hoàn hảo nhất, một hình thức mà sau đó không còn ai có thể nói gì được nữa. Khi chúng tớ hoàn thành thì những người như cậu sẽ phải học lại toàn bộ từ đầu. Các vị nghĩ rằng nhiệm vụ của chúng tớ là nghĩ ra từ mới chứ gì. Sai bét! Chúng tớ đang phá hủy từ ngữ, phá hủy rất nhiều, hàng trăm từ mỗi ngày. Chỉ để lại bộ khung thôi. Không có một từ nào trong lần xuất bản thứ mười một là bị lỗi thời trước năm 2050.”

Anh ta nhai nhồm nhoàm mẩu bánh mì rồi nuốt và lại tiếp tục câu chuyện một cách phô trương. Khuôn mặt xương xương của anh trở nên sống động, cặp mắt hết vẻ nhạo báng mà trở thành mơ màng.

“Phá hủy từ ngữ là một công việc tuyệt vời. Tất nhiên rác rưởi chủ yếu là ở động từ và tính từ, nhưng danh từ cũng thừa nhiều lắm, phải nói là hàng trăm thậm chí hàng ngàn. Không chỉ danh từ đồng nghĩa mà cả phản nghĩa cũng thừa. Đã có một từ rồi thì thử hỏi từ ngược nghĩa với nó còn dùng để làm gì? Một từ bản thân nó đã có nghĩa ngược lại rồi. Thí dụ từ "tốt". Nếu ta đã có từ "tốt" thì từ "xấu" dùng để làm gì? "Không tốt" cũng vậy thôi, mà lại còn hơn vì nó ngược nghĩa hoàn toàn trong khi các từ khác đâu có được như thế. Nếu anh muốn nhấn mạnh "tốt" thì cần gì đến một dãy những từ mù mờ, vô ích như kiểu "tuyệt vời", "tuyệt hảo"? Từ "tốt cộng" bao hàm tất cả các nghĩa đó hoặc dùng từ "cặp tốt cộng" để nhấn thêm nữa. Tất nhiên hiện nay chúng ta cũng đã sử dụng những hình thức này rồi, nhưng trong phương án mới của Ngômo thì các hình thức khác sẽ bị loại bỏ hoàn toàn. Cuối cùng toàn bộ khái niệm tốt và xấu sẽ được thể hiện bằng sáu từ, nhưng thực chất là chỉ có một từ thôi. Winston, cậu có thấy như vậy là hoàn hảo không? Ý tưởng này là của Anh Cả đấy. "Anh ta vội vã nói thêm.

Vừa nghe nhắc đến tên anh cả là mặt Winston vội tỏ vẻ hào hứng một cách uể oải. Nhưng Syme đã nhận ra ngay sự thiếu nhiệt tình của anh.

“Winston, cậu đánh giá chưa đúng Ngômo đâu”, Syme nói vẻ hơi buồn. “Ngay lúc viết bằng Ngômo, cậu vẫn suy nghĩ bằng Ngôn ngữ cũ. Đôi khi tớ có đọc những bài cậu viết trên tờ Times. Hay thì có hay đấy, nhưng vẫn là những bản dịch. Trong thâm tâm cậu vẫn bám vào Ngôn ngữ cũ với tất cả những sắc thái mù mờ và vô ích của nó. Cậu chưa nhận thấy cái đẹp trong việc phá huỷ ngôn từ đâu. Cậu có biết rằng Ngômo là ngôn ngữ duy nhất trên thế giới có số từ vựng giảm hàng năm không?

Dĩ nhiên là Winston không biết. Anh mỉm cười, cố tỏ vẻ đồng tình nhưng không dám mở miệng. Syme lại cắn một miếng bánh mì đen nữa, anh trệu trạo nhai rồi nói tiếp:

“Chả lẽ cậu không biết rằng nhiệm vụ của Ngômo là thu hẹp không gian tư duy lại hay sao? Cuối cùng chúng ta sẽ tiêu diệt luôn tội tư tưởng vì không còn từ nào để thể hiện tội đó nữa. Mỗi một khái niệm cần thiết sẽ được thể hiện bởi một từ duy nhất, ý nghĩa của mỗi từ sẽ được qui định chặt chẽ, các nghĩa phụ, đi kèm sẽ bị huỷ bỏ và người ta sẽ quên. Chúng ta đã tiến gần đến mục đích này trong lần xuất bản thứ mười một tới đây. Nhưng tiến trình sẽ còn được tiếp tục sau khi tôi và anh đã chết lâu rồi. Mỗi năm lại giảm đi một ít từ và không gian tư duy vì thế cũng thu hẹp dần. Dĩ nhiên lúc này thì không có lí do hay sự bào chữa nào cho tội tư tưởng cả. Đấy chỉ là vấn đề tự mình chấp hành kỉ luật và làm chủ hiện thực mà thôi. Nhưng cuối cùng thì ngay cả điều đó cũng không cần thiết nữa. Cách mạng sẽ hoàn thành khi ngôn ngữ đã hoàn thiện. Ngômo là Chuanh và Chuanh là Ngômo”, anh nói thêm với một vẻ thoả mãn thần bí. “Winston, bạn có bao giờ nghĩ rằng muộn nhất là đến năm 2050 trên trái đất này sẽ không còn ai hiểu được câu chuyện chúng ta đang nói hôm nay không?”

“Trừ”, Winston nói đầy ngờ vực nhưng rồi lại thôi.

Chút nữa thì anh đã thốt ra: "Trừ bọn cu li" nhưng kịp dừng lại đúng lúc vì anh không biết nói như thế có phải là phi chính thống không. Nhưng Syme đã đoán được ý anh.

“Bọn cu li không phải là người”, anh nói vẻ ngạo mạn. “Trước năm 2050, có thể sớm hơn nữa, mọi kiến thức về Ngôn ngữ cũ sẽ bị xoá sạch. Toàn bộ nền văn chương cũ sẽ bị hủy bỏ. Tác phẩm của Chaucer [3] , của Shakespeare [4] , của Milton [5] , của Byron [6] sẽ chỉ còn trong phiên bản của Ngômo mà thôi, không phải chúng được cải biến thành những phiên bản khác mà là thành những tác phẩm hoàn toàn ngược lại với những cái đã từng là. Ngay văn chương của Đảng cũng sẽ biến đổi. Khẩu hiệu cũng đổi. Làm gì còn khẩu hiệu "Tự do là nô lệ" khi khái niệm tự do đã bị bãi bỏ? Môi trường tư duy sẽ hoàn toàn khác. Tư duy, như chúng ta vẫn hiểu hiện nay sẽ không còn. Chính thống là không suy nghĩ, không cần suy nghĩ. Chính thống là vô thức.”

Một ngày nào đó, Winston bất chợt nghĩ, Syme sẽ bị bốc hơi. Anh ta thông minh quá. Anh ta hiểu rõ mọi việc và lại thẳng ruột ngựa nữa. Đảng không ưa mẫu người như vậy. Anh ta nhất định sẽ bị bốc hơi. Câu đó như được viết trên mặt anh ta.

Winston đã ăn xong bánh mì và pho mát. Anh khẽ nghiêng người để lấy li cà phê. Ở bàn bên trái người đàn ông nọ vẫn tiếp tục tuôn ra hàng tràng liên thanh bằng giọng chói tai như cũ. Một phụ nữ trẻ, có thể là thư kí của người đàn ông nọ, ngồi ngay sau Winston, chăm chú lắng nghe ông ta và có vẻ như sẵn sàng đồng ý với tất cả những gì ông ta nói. Chốc chốc Winston lại loáng thoáng nghe thấy một giọng phụ nữ trẻ, có vẻ đần nói những câu đại loại như: "Đúng quá, tôi cũng nghĩ vậy". Nhưng người đàn ông vẫn nói, không ngừng nghỉ, ngay cả khi cô gái kia ngắt lời. Winston đã từng gặp ông ta, nhưng anh chỉ biết đại khái là ông ta giữ một chức vụ quan trọng trong Ban Sáng Tác. Ông ta khoảng ba mươi tuổi, cổ đầy bắp thịt, miệng rộng và không bao giờ yên. Đầu ông ta hơi ngả ra sau, cặp kính phản chiếu ánh sáng vế phía Winston nên anh chỉ nhìn thấy hai vòng tròn trắng chứ không nhìn thấy mắt. Cái gây cho người ta cảm giác rờn rợn chính là không thể nghe rõ được một từ nào trong mớ âm thanh đang tuôn ra liên hồi kì trận từ cái miệng rộng của người đàn ông nọ. Chỉ có một lần Winston nghe thấy câu: "Tiêu diệt hết và hoàn toàn phái Goldstein", câu nói bắn ra nhanh gọn, như một hàng chữ bật ra từ máy in. Còn nói chung thì giống như một tiếng ồn liên tục, như tiếng đàn vịt kêu: cạc-cạc-cạc bất tận. Và tuy không nghe rõ người ta vẫn có thể đoán được nội dung câu chuyện của người đàn ông. Dù là ông ta có lên án Goldstein, dù là ông ta có đòi phải áp dụng các biện pháp cứng rắn chống lại bọn tội phạm tư tưởng và bọn phá hoại, dù ông ta có tỏ ý bất bình với những hành động dã man của quân Eurasia; dù ông ta có ca ngợi Anh Cả hay các chiến sĩ trên mặt trận Malabar, thì cũng thế mà thôi. Dù nói gì thì đấy vẫn chỉ là tuyệt đối chính thống, tuyệt đối Chuanh. Nhìn cái miệng liên tục há ra ngậm vào trên khuôn mặt không có mắt của ông ta, Winston bỗng nghĩ hay đây không phải là người thật mà chỉ là một manơcanh thôi. Những câu nói không xuất phát từ óc não mà xuất phát từ thanh quản. Đúng là từ ngữ chui ra khỏi miệng, nhưng đấy không phải là nói, theo đúng nghĩa của từ này: đấy chỉ là âm thanh sinh ra trong vô thức, chả khác gì tiếng quạc quạc của bầy vịt.

Syme ngồi yên lặng, anh lấy cán thìa vẽ lên chỗ nước sốt đổ trên mặt bàn. Tiếng quạc-quạc ở bàn bên vẫn phun ra liên tục và nhanh như cũ, người ta dễ dàng phân biệt được nó với tiếng ồn ào xung quanh.

“Có một từ trong Ngômo”, Syme nói. “Không hiểu cậu đã biết chưa: vịtngữ, nghĩa là kêu quạc quạc như vịt. Đấy là một trong những từ thú vị, có hai nghĩa trái ngược nhau. Với địch thủ thì đấy là lời chửi rủa, nhưng với đồng chí thì lại là ngợi ca.”

Chắc chắn là Syme sẽ bốc hơi thôi, Winston lại nghĩ. Anh cảm thấy hơi buồn mặc dù biết rằng Syme coi thường mình, chẳng ưa gì mình và nếu phát giác ra thì sẽ tố cáo anh là tội phạm tư tưởng ngay. Syme có phần chưa thật hoàn toàn. Anh bị thiếu một cái gì đó: có thể là sự thận trọng hay sự lãnh đạm mà cũng có thể là sự khù khờ để được thánh nhân đãi chăng. Không thể bảo là anh ta phi chính thống. Anh tin tưởng vào các nguyên lí của Chuanh, kính yêu Anh Cả, vui mừng với mỗi chiến thắng, anh căm thù bọn tội phạm tư tưởng, không những căm thù một cách chân thành mà còn với lòng nhiệt tình vô bờ bến nữa, lại còn nắm được những tin tức mới nhất mà không phải đảng viên nào cũng có quyền biết. Nhưng nhìn anh người ta sẽ nghĩ ngay đây là một kẻ bất hảo. Anh nói những chuyện đáng lẽ không nên nói, anh đọc rất nhiều sách, lại hay ghé quán cà phê Cây Dẻ là chỗ tụ bạ của bọn nhạc sĩ và họa sĩ nữa. Không có điều luật thành văn hay bất thành văn nào cấm vào quán Cây Dẻ nhưng chỗ đó như có điềm gở thế nào ấy. Trước đây các đảng viên già, thất sủng thường tụ tập ở đó, cuối cùng họ đã bị thanh trừng. Nghe nói Goldstein cũng thường đến đây, lâu rồi, có thể cả chục năm rồi, dĩ nhiên. Số phận của Syme không phải là việc khó đoán. Nhưng có một điều chắc chắn là nếu Syme phát hiện được quan điểm của Winston thì anh ta sẽ báo cáo với Cảnh Sát Tư Tưởng ngay. Ai cũng sẽ làm thế: nhưng Syme làm nhanh hơn nhiều người khác. Lòng nhiệt tình không chưa đủ. Chính thống là trạng thái vô thức.

Syme bỗng ngẩng đầu lên.

“Parsons đang tới kìa”, anh nói.

Giọng của anh như muốn thêm: "một thằng ngốc chán ngắt". Parsons, một người thấp và béo phệ, mặt như mặt ếch, hàng xóm cùng chung cư Chiến Thắng với Winston, đang lách qua căn phòng. Anh ta mới có ba mươi lăm tuổi nhưng cổ đã bự và bụng thì núc ních những mỡ, tuy thế dáng đi dứt khoát và nhanh nhẹn không khác gì thanh niên. Anh ta có dáng của một đứa trẻ, cho nên mặc dù anh ta mặc đồng phục nhưng vẫn có thể tưởng tượng như anh ta đang mặc quần sọc xanh, áo sơ mi xám, cổ đeo khăn quàng đỏ của đội viện đội Tình Báo. Nhắm mắt lại ta có thể tưởng tượng ra hai đầu gối xù xì và hai ống tay áo sắn đến tận khuỷu của anh ta. Thực ra Parsons luôn luôn vận quần sóoc khi đi dã ngoại hay tham gia các hoạt động thể thao nghĩa là mặc ngay khi hoàn cảnh cho phép. Anh ta nói : "Xin chào, xin chào" với cả hai người rồi ngồi xuống cạnh bàn, mùi mồ hôi nồng nặc lập tức bao trùm khắp nơi. Khuôn mặt anh bám đầy những giọt mồ hôi to bự. Khả năng ra mồ hôi của Parsons quả là vô địch. Ở câu lạc bộ, chỉ cần cầm vào vợt, thấy còn ướt, là có thể đoán Parsons đã chơi bóng bàn trước đó bao lâu. Syme lôi ra một mảnh giấy đầy chữ và đọc, tay cầm sẵn một chiếc bút chì hoá học.

“Xem này, ăn cũng không nghỉ”, vừa nói Parsons vừa thúc vào sườn Winston. “Say mê quá? Việc gì đấy, anh bạn? Tớ thì hiểu sao nổi, đúng không? Smith, có biết tại sao tớ phải tìm cậu không? Cậu quên đóng cho tôi.”

“Đóng gì?”, Winston vừa nói vừa đưa tay vào túi lấy tiền. Khoảng một phần tư tiền lương được dùng vào việc tự nguyện mua đủ thứ, nhiều thứ đến nỗi chẳng thể nhớ xuể.

“Tuần lễ Hận Thù. Cậu biết đấy, đóng theo khu dân cư mà. Tớ là thủ quỹ khu nhà mình. Chúng tớ đang cố hết sức để làm một buổi lễ cho ra trò. Nếu chung cư Chiến Thắng không treo được lá cờ to nhất khu phố thì cũng không phải lỗi của tớ đâu đấy. Cậu hứa nộp hai dollar mà.”

Winston lấy hai tờ tiền nhàu nát, nhớp mỡ đưa cho Parson. Anh ta liền ghi bằng những nét chữ nắn nót của một người ít học tên Winston vào cuốn sổ tay.

“Tiện đây”, Parsons lại nói. “Tớ nghe nói thằng nhóc nhà này hôm qua đã bắn vào cậu. Tớ đã mắng cho một trận ra trò. Tờ còn dọa là nếu còn thế sẽ bị tịch thu súng cao su đấy.

“Mình nghĩ cu cậu bực vì không được đưa đi xem hành quyết thôi”, Winston đáp.

“Vâng, tớ muốn nói thằng bé được lắm. Cả hai đứa đều nghịch khủng khiếp, nhưng say mê thì không chê vào đâu được! Chúng chỉ quan tâm tới đội Tình Báo và chiến tranh thôi. Các anh có biết con nhỏ nhà tôi đã làm được chuyện gì thứ bảy tuần rồi không? Chúng đi dã ngoại ở Berkhamsted, thế mà con bé kéo hai đứa con gái nữa theo dõi một người lạ mặt suốt một buổi chiều. Chúng theo dõi người này qua hết khu rừng, hai tiếng đồng hồ liền và khi đến Amersham thì giao cho đội tuần tra.

“Vì sao chúng lại làm thế?”, Winston vội vã hỏi.

“Con bé ngờ rằng hắn ta là gián điệp, mới xâm nhập bằng cách nhảy dù chẳng hạn. Nhưng cái chính là thế này. Các anh thử nghĩ xem vì sao con bé lại nghi ngờ người đó? Hoá ra là tại đôi giày, con bé nói chưa thấy đôi giày như vậy bao giờ. Có nhiều khả năng hắn là người ngoại quốc. Mới bảy tuổi thôi đấy, nhanh trí không?”

“Thế rồi sao?”, Winston lại hỏi.

“Tớ không biết. Nhưng tớ sẽ không ngạc nhiên nếu…”, vừa nói Parsons vừa làm điệu bộ ngắm súng và bật lưỡi, giả làm tiếng bóp cò.

“Tuyệt vời”, Syme nói một cách lơ đễnh, mắt vẫn không rời tờ giấy.

“Tất nhiên không được mất cảnh giác rồi”, Winston đế thêm.

“Thời chiến mà”, Parsons nói.

Dường như để phụ hoạ với điều Parsons vừa nói, chiếc màn vô tuyến treo ngay trên đầu ba người bỗng gióng lên hồi kèn xung trận. Nhưng đây không phải là tin chiến thắng mà chỉ là thông báo của Bộ Ấm No thôi.

“Thưa các đồng chí”, một giọng trẻ trung và mạnh mẽ vang lên. “Các đồng chí chú ý! Chúng tôi xin thông báo một tin vui. Chúng ta vừa thu được một chiến công to lớn trên mặt trận sản xuất! Số liệu về tổng sản phẩm các mặt hàng tiêu dùng chứng tỏ rằng mức sống đã được nâng lên ít nhất là 20 phần trăm so với năm ngoái. Sáng nay trên khắp cả nước Oceania đều có những cuộc diễu hành quần chúng tự phát, công nhân các nhà máy và công sở đã đổ ra đường với cờ, hoa, khẩu hiệu, biểu ngữ để tỏ lòng tri ân Anh Cả, tri ân sự lãnh đạo sáng suốt của Anh mới có cuộc sống mới ấm no hạnh phúc như ngày hôm nay. Đây là một vài con số tổng kết. Về mặt thực phẩm…”

Câu "cuộc sống mới, ấm no, hạnh phúc" được nhắc đi nhắc lại nhiều lần. Thời gian gần đây Bộ Ấm No rất hay nói câu này. Parsons, lúc nãy đã giật mình vì tiếng kèn, chăm chú lắng nghe, miệng há hốc vừa như long trọng vừa như chán nản. Anh ta không thể nhớ hết các con số, nhưng anh biết rằng đấy là lí do để vui. Anh lấy từ trong túi ra một cái tẩu to, sặc mùi, thuốc đã cháy đen lèn chặt một nửa phễu. Với khẩu phần là 100 gram thuốc lá một tuần thì hiếm ai dám lèn đầy. Winston hút Chiến Thắng, anh phải chú ý giữ cho điếu thuốc luôn nằm ngang. Ngày mai mới được lĩnh tiêu chuẩn cho tuần sau mà anh chỉ còn có bốn điếu nữa thôi. Lúc này anh đang lắng nghe màn vô tuyến, cố không để ý tiếng ồn xung quanh. Hóa ra còn có cả các cuộc tuần hành để tỏ lòng biết ơn Anh Cả vì đã nâng khẩu phần chocolate lên hai mươi gram một tuần nữa. Thế mà hôm qua, anh tự nhủ, người ta vừa tuyên bố giảm khẩu phần xuống còn hai mươi gram đấy. Chả lẽ mới có hai mươi bốn tiếng đồng hồ mà họ đã tin sao? Đúng thế, họ tin. Parsons tin liền, tin như một con vật ngu si. Cái thằng không mắt ngồi bên cạnh cũng tin, tin một cách cuồng tín, một cách nồng nhiệt, sẵn sàng phát hiện, tố cáo và làm cho bốc hơi bất kì người nào nói rằng tuần trước khẩu phần là ba mươi gram. Syme cũng tin, tuy rắc rối hơn, phải nhờ nước đôi. Hoá ra chỉ mỗi một mình anh còn trí nhớ thôi ư?

Các số liệu tưởng tượng vẫn tiếp tục tuôn ra từ màn vô tuyến. So với năm ngoái thì năm nay có nhiều lương thực hơn, nhiều quần áo hơn, nhiều nhà mới hơn, nhiều đồ gỗ hơn, nhiều chảo hơn, nhiều nhiên liệu hơn, nhiều tàu thủy hơn, nhiều máy bay hơn, nhiều sách vở hơn, nhiều trẻ em hơn, mọi thứ đều nhiều hơn; chỉ có bệnh tật, tội ác và người điên là ít hơn mà thôi. Từng năm, thậm chí từng phút, mọi người, mọi vật, mọi hiện tượng đều phát triển, đều vươn lên tầm cao mới. Bắt chước Syme, Winston cũng lấy cán thìa nhúng vào chỗ nước sốt đổ trên mặt bàn và kéo dần, kéo dần nó từ một vệt dài ngoằng thành ra có hình thù cân đối. Vừa làm thế, anh vừa nghĩ về cuộc sống của mình, về điều kiện sống nói chung, tâm trạng vô cùng bức xúc. Chả lẽ ngày xưa cũng như thế này ư? Lúc nào thức ăn cũng có mùi, có vị như thế này ư? Anh đảo mắt nhìn quanh căng tin. Trần thì thấp, người thì đông, tường thì bẩn, bàn ghế mòn vẹt lại để gần nhau, khuỷu tay người nọ chạm người kia, thìa dĩa thì cong vênh, mâm thì thủng, bát đĩa thô kệch, chỗ nào cũng nhớp mỡ, bụi bám đầy các khe hở, rồi mùi chua chua, cái mùi hỗn hợp của rượu rởm, cà phê rởm, nước sốt han đồng và quần áo bẩn nồng nặc khắp nơi. Lúc nào ruột gan, da thịt cũng có cảm giác khó chịu, cảm giác bị lừa bịp. Quả tình suốt đời anh chưa từng biết cảm giác nào khác. Chưa bao giờ có thức ăn dư dả, chưa bao giờ tất và quần áo lót không đầy lỗ thủng, bàn ghế thì bao giờ cũng mòn vẹt và ọp ẹp như sắp đổ đến nơi, phòng thì lạnh, tầu điện ngầm chật ních người, tường nhà lở loét, chỉ độc một loại bánh mì đen, chè là của hiếm, cà phê đắng nghét, thuốc lá không đủ hút – ngoài rượu Gin tổng hợp ra thì cái gì cũng thiếu, cũng đắt. Tất nhiên là cơ thể ngày một già đi, nặng nề, chậm chạp thêm; nhưng nếu ta luôn cảm thấy khó chịu vì thiếu thốn, vì bẩn thỉu và lộn xộn, vì mùa đông kéo dài vô tận, vì những chiếc tất nhớp nhúa, vì thang máy chẳng bao giờ chạy, vì nước lạnh, vì xà phòng cứng, vì thuốc lá không chặt, vì mùi vị thức ăn khủng khiếp thì đấy có phải dấu hiệu là nếp sống đang có vấn đề không? Nếu ta thấy cuộc sống này là không chấp nhận được thì có phải trí nhớ được truyền lại từ bao đời trước đã mách bảo ta rằng trước đây mọi sự đã khác hay không?

Anh lại nhìn quanh căng tin một lần nữa. Người nào trông cũng xấu, dù họ có thay bộ đồng phục màu xanh đang mặc bằng những bộ khác thì cũng thế mà thôi. Ở phía cuối căn phòng có một người đàn ông thấp bé đang uống cà phê, trông ông ta không khác gì một con cánh cam, mắt láo liêng, không ngừng ngó ngược ngó xuôi. Nếu không quan sát, Winston nghĩ, thì người ta dễ tin rằng dường như mẫu người lí tưởng do Đảng vẽ ra: thanh niên thì to khoẻ, phụ nữ thì ngực đầy, tóc sáng, vô tư, năng động, da sạm nắng đã và đang tồn tại, thậm trí chiếm ưu thế. Nhưng theo anh thì đa số cư dân Đường bay I là những người nhỏ bé, đen đủi và thiếu hấp dẫn. Không hiểu sao trong các Bộ lại có lắm loại người-cánh cam: thấp tè, chân ngắn, bụng phệ sớm, dáng điệu vội vàng hấp tấp, mặt dày vô cảm, thế nhỉ? Dưới sự lãnh đạo của Đảng loại người này đặc biệt đông.

Bản thông báo của Bộ Ấm No kết thúc trong tiếng kèn đồng rộn rã và sau đó là bản nhạc vui. Parsons, cảm thấy phấn chấn vì các số liệu, đưa tay lên rút tẩu ra.

“Năm nay Bộ Ấm No làm khá lắm”, vừa nói anh ta vừa gật đầu tỏ vẻ thành thạo.

“Này, Smith, cậu có cái dao cạo dự trữ nào không?”

“Không”, Winston đáp. “Tháng rưỡi nay tớ vẫn dùng có một cái.”

“Ừ, thì...mình cũng hỏi thế.”

“Xin lỗi”, Winston lại nói.

Tiếng quạc quạc ở bàn bên đã tạm ngưng khi nghe thông báo của Bộ, nay lại tiếp tục vang lên, to như cũ. Không hiểu sao tự nhiên Winston lại nghĩ đến bà Parsons, nghĩ đến mớ tóc ướt lòa xòa và những nếp nhăn dính bụi của bà ta. Chỉ hai năm nữa thôi, con bà ta sẽ tố cáo bà với Cảnh Sát Tư Tưởng. Bà Parsons sẽ bốc hơi. Syme sẽ bốc hơi. O’Brien sẽ bốc hơi. Nhưng ông Parsons sẽ không bao giờ bốc hơi. Thằng không mắt đang kêu quạc quạc kia sẽ không bao giờ bốc hơi. Những thằng lùn, những thằng người-cánh cam, suốt ngày chạy trong những hành lang rắc rối như mê cung của các Bộ cũng không bao giờ bốc hơi. Và cái cô gái tóc đen ở Ban Sáng tác cũng không bao giờ bốc hơi. Anh có thể đoán được ai sẽ sống và ai sẽ diệt vong, mặc dù không thể nói tại sao.

Winston bỗng giật nảy mình. Người con gái ở bàn bên cạnh vừa xoay lại và nhìn thẳng vào anh. Đấy chính là cô gái tóc đen. Cô ta nhìn nghiêng, nhưng rất chăm chú. Nhưng khi mắt họ vừa gặp nhau thì cô vội quay đi.

Mồ hôi túa ra dọc sống lưng Winston. Anh phát run lên vì sợ. Nỗi kinh hoàng ập đến rất nhanh và qua cũng nhanh, chỉ còn lại cảm giác bứt rứt không yên. Tại sao cô ta lại theo dõi mình? Đáng tiếc là anh không thể nhớ khi mình vào thì cô ta đã ngồi ở đấy hay sau này mới tới. Nhưng hôm qua, lúc Hai Phút Hận Thù, thì rõ ràng là cô ta ngồi ngay đằng sau anh, mặc dù chẳng có lí do gì để làm như thế cả. Có nhiều khả năng là cô ta định nghe và kiểm tra xem anh có nói đủ to không.

Anh lại nghĩ như trước: có thể cô ta không phải là nhân viên của Cảnh Sát Tư Tưởng, nhưng chính bọn nghiệp dư còn đáng sợ hơn. Anh không biết cô ta đã theo dõi bao lâu, có thể khoảng năm phút, anh cũng không biết vừa rồi mình có giữ đúng tư thế hay không. Ở nơi công cộng hay trong vùng quan sát của màn vô tuyến mà tỏ ra đăm chiêu là nguy to. Chỉ một chút vô tình là coi như xong. Chỉ cần một cái máy mắt, một biểu hiện lo lắng, thói quen lẩm bẩm một mình, hay bất kì biểu hiện bất bình thường hay ý định che giấu một cái gì đó là xong. Chỉ cần nét mặt không phù hợp (thí dụ tỏ không tin khi nghe thông báo thành tích) cũng bị trừng trị rồi. Ngômo gọi đấy là: mặtội, tội lỗi thể hiện trên nét mặt.

Cô gái đã quay lưng lại. Có thể là cô ta không theo dõi anh, có thể vô tình cô đã ngồi gần anh hai ngày liền mà thôi. Điếu thuốc đã tắt hẳn, anh cẩn thận đặt nó bên mép bàn. Anh sẽ hút sau khi xong việc, đấy là nói nếu anh còn giữ được. Có thể người ở bàn bên cạnh chính là chỉ điểm của Cảnh Sát Tư Tưởng, có thể chỉ ba ngày nữa anh sẽ bị đưa vào tầng hầm của Bộ Tình Yêu, nhưng không được để rơi chỗ thuốc lá hút dở. Syme gập tờ giấy và nhét vào túi. Parsons lại lên tiếng.

“Mình đã kể cho cậu nghe”, anh ta nói trong khi vẫn ngậm tẩu, “chuyện hai đưa nhóc nhà mình đốt váy một con mẹ bán hàng ngoài chợ khi chúng trông thấy mụ ta lấy tờ biểu ngữ có ảnh Anh Cả để gói lạp xường chưa nhỉ? Chúng lẻn từ phía sau tới và dùng cả một bao diêm đang cháy để đốt. Chắc là bỏng phải biết. Bọn nhóc quậy ha? Nhưng nhạy bén đấy chứ! Đấy là những bài học đầu tiên của đội Tình Báo, phải nói là tốt hơn thời của tôi. Các vị có biết gần đây chúng được trang bị gì không? Trang bị cả ống nghe, có thể nghe lén qua lỗ khoá nhé! Hôm qua con nhóc mang về nghe thử, nó bảo rõ gấp hai tai không. Dĩ nhiên đấy chỉ là đồ chơi thôi. Nhưng ý tưởng thì không chê vào đâu được, đúng không?”

Màn hình bỗng phát ra tiếng huýt chói tai. Đấy là tín hiệu báo giờ làm việc bắt đầu. Cả ba cùng đứng dậy, trước thang máy là một đám đông chen chúc, Winston không thể giữ được chỗ thuốc lá hút dở.


©  talawas
[1]Charlemagne – Vua Pháp (724-814)
[2]Ceasar – Hoàng đế La Mã (100-44 trước công nguyên)
[3]Geoffrey Chaucer – Nhà thơ lớn người Anh (1343-1400)
[4]William Shakespeare – Nhà thơ, nhà soạn kịch vị đại người Anh (1564-1616
[5]John Milton – Nhà thơ lớn người Anh (1608-1674)
[6]Lord Byron – Nhà thơ lớn người Anh (1788-1824)
Còn 12 kì nữa

Nguồn: GEORGE ORWELL, NINETEEN EIGHTY-FOUR, Penguin Book, 1990: http://orwell.ru/library/novels/1984/
Có tham khảo bản Nga văn của Golưshev V. P., 1988: http://orwell.ru/library/novels/1984/russian/


No comments:

Post a Comment