Pages

May 2, 2011

N. A. Berdaev - Chân lí của triết học và sự thật của người trí thức (Tiếp theo và hết)



Chủ nghĩa duy vật kinh tế cũng bị hiểu một cách sai lạc và bị người ta xuyên tạc, giống như đã làm với chủ nghĩa thực chứng khoa học nói chung. Chủ nghĩa duy vật kinh tế là học thuyết chủ yếu mang tính khách quan, nó đặt cái gốc mang tính khách quan của sản xuất chứ không phải gốc chủ quan của phân phối vào trung tâm của đời sống xã hội. Học thuyết này cho rằng bản chất của lịch sử loài người nằm ở quá trình chiến thắng mang tính sáng tạo trước tự nhiên, trong xây dựng kinh tế và tổ chức lực lượng sản xuất. Toàn bộ thể chế xã hội cùng với những hình thức phân phối công bằng đặc trưng của nó, thái độ chủ quan của các nhóm xã hội khác nhau phải phục tùng cái gốc sản xuất mang tính khách quan này. Cũng cần phải nói rằng chủ nghĩa Marx, trong khía cạnh khoa học-khách quan của nó, từng tồn tại mầm mống lành mạnh, điều đó đã được một người khoa học nhất và có văn hoá nhất trong số những người mác-xít của chúng ta là P. B. Struve[1] khẳng định và phát triển. Nhưng nói chung, cả chủ nghĩa duy vật kinh tế lẫn chủ nghĩa Marx đều bị hiểu sai và tiếp thu theo kiểu “chủ quan” và được cải biến để thích nghi với tâm lí truyền thống của giới trí thức. Ở Nga, chủ nghĩa duy vật kinh tế đã không còn tính chất khách quan nữa, yếu tố khách quan bị đẩy ra phía sau, yếu tố giai cấp-chủ quan của phong trào dân chủ-xã hội thì nhảy lên mặt trước. Chủ nghĩa Marx thoái hoá theo lối dân tuý, còn chủ nghĩa duy vật kinh tế thì biến thành một hình thức mới của “xã hội học chủ quan”. Những người mác-xit Nga đã bị tình yêu đối với quyền bình đẳng và niềm tin vào chiến thắng không xa của chủ nghĩa xã hội và khả năng giành chiến thắng đó, thậm chí trước cả phương Tây, cầm tù. Yếu tố khách quan của chân lí đã chìm nghỉm trong yếu tố chủ quan, chìm trong quan điểm “giai cấp” và tâm lí giai cấp. Ở Nga, triết lí của chủ nghĩa duy vật kinh tế đã biến thành “chủ nghĩa chủ quan mang tính giai cấp”, thậm chí trở thành khoa thần bí mang tính giai cấp vô sản nữa. Trong tình hình triết học như thế, nhận thức không thể hướng về các điều kiện phát triển khách quan của nước Nga mà tất yếu bị cái ước muốn giành cho bằng được cái tối đa trừu tượng cho giai cấp vô sản, cái tối đa theo quan điểm của một nhúm trí thức không hề muốn biết bất kì chân lí khách quan nào, nuốt gọn. Cuộc sống của nước Nga không tạo điều kiện cho triết học và khoa học xã hội nở hoa kết trái. Triết học và khoa học bị hiểu theo lối trí thức-chủ quan.

Phái Kant trẻ bị xuyên tạc ít hơn vì ít được ưa chuộng và ít phỏ biến hơn. Nhưng vẫn có một giai đoạn, khi chúng ta rất muốn sử dụng phái Kant trẻ nhằm canh tân một cách có phê phán chủ nghĩa Marx và đặt lại nền móng cho chủ nghĩa xã hội. Ngay cả một người có tinh thần khoa học và khách quan như Struve mà trong tác phẩm đầu tay cũng đã phạm sai lầm khi giải thích lí thuyết về nhận thức của Riehl[2] theo lối quá thiên về xã hội học, còn nhận thức luận của Riehl thì được giải thích theo lối có lợi cho chủ nghĩa duy vật kinh tế. Còn Simmel[3] thì có thời được coi gần như là một người mác-xít, mặc dù ông có rất ít điểm chung với chủ nghĩa Marx. Sau này, tinh thần của phái Hegel trẻ và phái Fichte[4] trẻ cũng được coi là công cụ nhằm thoát khỏi chủ nghĩa Marx và chủ nghĩa thực chứng và là phương tiện thể hiện những lí tưởng chưa thật sự chín muồi. Truyền thống sáng tạo của phái Hegel trẻ không thâm nhập được vào triết học Nga, triết học thực sự của Nga đi theo một hướng khác, ta sẽ thảo luận vấn đề này sau. Công bằng mà nói việc quan tâm đến Kant và Fichte, đến chủ nghĩa duy tâm Đức đã nâng cao được trình độ văn hoá-triết học và là cầu nối đến những hình thức triết học cao hơn.


Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán bị xuyên tạc hơn nhiều. Đây là hình thức tinh tế nhất và trừu tượng nhất của chủ nghĩa thực chứng, lớn lên trong truyền thống của chủ nghĩa phê phán Đức, được tiếp thu gần như triết lí mới của giai cấp vô sản, các ông Bogdanov, Lunatrarski và những người khác công nhận là có thể sử dụng như của nhà, như là do chính mình sáng tạo ra vậy. Nhận thức luận của Avenarius trừu tượng và mang tính hình thức đến mức chẳng hề giải quyết được bất cứ vấn đề siêu hình học nào. Avenarius phải dùng đến biểu trưng bằng chữ cái để không dây dưa với bất cứ luận điểm nào của bản thể luận. Avenarius rất sợ bất cứ tàn dư nào của chủ nghĩa duy vật và thuyết duy linh và mọi thứ chủ nghĩa khác. Ông không chấp nhận cả chủ nghĩa duy vật sinh học cũng như bất kì hình thức bản thể luận nào. Chủ nghĩa sinh vật biểu kiến của Avenarius tưởng chừng như không thể gây ra bất kì sự ngộ nhận nào; đây là chủ nghĩa sinh vật hoàn toàn mang tính hình thức và chung nhất, bất cứ “nhà thần bí” nào cũng có thể chấp nhận. Ông Kornelius, một trong những người theo phái kinh nghiệm phê phán thông minh nhất, công nhận rằng có thể đưa nó vào loại thần học. Nhưng giới trí thức mác-xít của chúng ta lại tiếp thu và giải thích chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán của Avenarius theo tinh thần của chủ nghĩa duy vật sinh học vì hoá ra làm thế là có lợi cho việc biện hộ cho cách hiểu duy vật về lịch sử. Chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán không những đã trở triết lí của những người dân chủ-xã hội mà còn của cả những người dân chủ-xã hội “bolsevik” nữa. Tội nghiệp cho Avenarius, ông không thể nào ngờ được rằng tên ông, một cái tên chất phác và xa lạ với cuộc đấu tranh thông thường, lại dính líu vào những cuộc tranh cãi của những người trí thức “bolsevik” và “mensevik” ở nước Nga. Cuốn Phê bình kinh nghiệm thuần tuý[5] bỗng nhiên xuýt chút nữa thì trở thành “cuốn sách mang tính biểu tượng” của giáo phái dân chủ-xã hội cách mạng. Trong hàng ngũ trí thức mác-xít có lẽ cũng chẳng có mấy người đọc Avenarius vì đọc ông không phải là việc dễ, và nhiều người có lẽ đã thực sự tin rằng Avenarius là một người “bolsevik” thông minh nhất. Trên thực tế, Avenarius, cũng như bất kì triết gia nào khác của Đức, có rất ít quan hệ với phong trào dân chủ-xã hội, phái tư sản tự do cũng có thể sử dụng triết học của ông, thậm chí dùng Avenarius để biện hộ cho việc ngả sang “hữu” của mình nữa. Cái chính cần phải nói là nếu Avenarius chỉ đơn giản như Bogdanov, Lunatrarski và những người khác nghĩ, nếu triết học của ông chỉ là chủ nghĩa duy vật sinh học với não bộ ở trung tâm thì ông đã không cần phải phát minh ra các hệ thống C khác nhau, những hệ thống được giải phóng khỏi mọi tiền đề và ông đã không được ngay cả những người phản đối công nhận là thông minh và có lô gich sắt đá[6]. Nói cho ngay, những người mác-xít theo trường phái phê phán kinh nghiệm chủ nghĩa đã không gọi mình là duy vật nữa, họ nhường chủ nghĩa duy vật cho những người “melsevik”, thí dụ như Plekhanov và những người khác, nhưng chính chủ nghĩa kinh nghiệm phê phán thì lại nhuốm màu duy vật và siêu hình. Bogdanov nhiệt tình cổ xuý cho những lời bịa tạc siêu hình thô lậu, hoài công nhắc đến tên Avenarius, Mach và những người nổi tiếng khác, còn Lunatrarski thì dùng Avenarius để bịa ra cho giai cấp vô sản một tôn giáo mới. Đa số các triết gia châu Âu đều rất trừu tượng và tách biệt với đời sống, họ không thể ngờ là mình đã có vai trò như thế nào trong những cuộc tranh luận và cãi cọ của giới trí thức mang tính phe nhóm của chúng ta và sẽ rất ngạc nhiên nếu có người nói cho họ biết rằng những tư tưởng sâu sắc của họ đã biến thành những cuốn sách mỏng dính.

Nhưng số phận của Nietzsche mới thật là đáng buồn. Con người đơn độc căm thù mọi thứ dân chủ này, khi sang đến nước ta, đã bị đẩy vào một quá trình dân chủ hoá rất vô liêm sỉ. Nietzsche bị xé thành từng mảnh, ai cũng có, mỗi người đều có thể sử dụng cho mục đích của mình. Hoá ra là Nietzsche, người đã chết mà vẫn nghĩ rằng mình là người chẳng ai cần và và là người đơn độc, thì nay lại rất cần để làm mới và hồi sinh lại chủ nghĩa Marx. Một mặt, chúng ta có một đống những người cá nhân chủ nghĩa theo trường phái của Nietzsche, mặt khác, Lunatrarski lại dùng Marx, Avenarius và Nietzsche để làm thành một món nộm hổ lốn mà nhiều người rất thích, nhiều người thấy là thú vị. Tôi nghiệp cho Nietzsche quá!, tội nghiệp cho tư tưởng Nga quá! Giới trí thức đói khát của nước Nga đã được mời xơi biết bao nhiêu là món, món nào họ cũng chấp nhận, món nào họ cũng xơi với hi vọng là sẽ chiến thắng được những điều tệ hại của chế độ chuyên chế và nhân dân sẽ được giải phóng. Tôi sợ rằng ngay cả những học thuyết siêu hình nhất và huyền bí nhất cũng sẽ bị cải biến cho phù hợp với nhu cầu sử dụng nội tại mất thôi. Nhưng những điều xấu xa của đời sống Nga, những điều xấu xa của chế độ chuyên chế và nô lệ thì không thể bị đánh bại vì nó không thể bị đánh bại bằng những học thuyết cực đoan lại bị tiếp thu một cách lệch lạc như thế. Cả Avenarius, cả Nietzsche, thậm chí chính Marx cũng chẳng giúp được gì nhiều cho chúng ta trong cuộc đấu tranh với cái ác đã tồn tại hàng thế kỉ, cái ác đã xuyên tạc chính bản chất của chúng ta và làm cho chúng ta trở thành tối dạ trước các chân lí khách quan đến như thế. Chúng ta ít quan tâm đến các tư tưởng mang tính lí thuyết, còn chính cuộc đấu tranh thực tế với cái ác thì lại luôn có tính chất như là việc truyến bá những học thuyết trừu tượng. Triết học được gọi là chân chính nếu nó giúp cho cuộc đấu tranh chống chế độ chuyên chế nhân danh chủ nghĩa xã hội, còn việc tuyên truyền cho triết lí “chân chính” đó được coi là khía cạnh quan trọng nhất của chính cuộc đấu tranh này.

Chính những đặc điểm tâm lí đó của giới trí thức Nga đã dẫn đến kết quả là đã bỏ qua nền triết học độc đáo của nước Nga cũng như bỏ qua nội dung mang tính triết học của nền văn học vĩ đại của nước Nga. Nhà tư tưởng cỡ như Traadaev[7] đã không được cả những người đã từng nhắc đến tên ông nhận ra và họ đã không hiểu ông. Dường như đã có đủ cơ sở để công nhận rằng Vl. Soloviev là nhà triết học của dân tộc chúng ta để có thể xây dựng truyền thống triết học dân tộc xung quanh tên tuổi của ông. Vì rõ ràng là không thể xây dựng truyền thống này xung quanh tên tuổi của Kohen[8], Windelband[9] hay một người Đức, xa lạ với tâm hồn Nga nào đó được. Soloviev có thể trở thành niềm tự hào của nền triết học của bất kì nước châu Âu nào. Nhưng giới trí thức Nga không đọc Vl. Soloviev, không biết và không công nhận ông là người của mình. Triết học của Soloviev vừa sâu sắc vừa độc đáo nhưng nó không biện giải cho chủ nghĩa xã hội, nó xa lạ với chủ nghĩa dân tuý vá chủ nghĩa Marx, nó không thể trở thành công cụ đấu tranh với chế độ chuyên chế và không cung cấp cho giới trí thức “thế giới quan” phù hợp, nó trở thành xa lạ với họ hơn là “nhà mác-xít” Avenaruis hay “người dân tuý” Comte[10] và những người ngoại quốc khác. Dostoievski dĩ nhiên là một nhà siêu hình học vĩ đại nhất của Nga, nhưng đa số giới trí thức Nga không thể hiểu được siêu hình học của ông, ông bị nghi là “phản động” và quả thật đã tạo ra cho người ta lí do cho sự ngờ vực đó. Tôi thấy buồn khi phải nói rằng giới trí thức Nga, vốn có tinh thần thực chứng, đã không linh cảm được tinh thần siêu hình học của các nhà văn vĩ đại Nga. Vấn đề còn lại là, các nhà văn hay là giới trí thức, trong nhận thức đang giữ thế thượng phong của mình, là những người mang tính dân tộc hơn. Giới trí thức thậm chí không công nhận L. Tolstoi là người của mình, nhưng họ phải làm hoà với ông vì tinh thần dân tuý của ông và có thời đã bị ảnh hưởng bởi tư tưởng của ông. Trong tư tưởng của Tolstoi có cả khát vọng hướng tới một nền triết học cao siêu, khát vọng sáng tạo và nhận thức về tội lỗi của sự xa hoa như thế.

Tôi thấy buồn nhất là giới trí thức Nga khăng khăng không chịu là quen với những mầm mống của triết học Nga. Mà triết học Nga không chỉ giới hạn ở hiện tượng sáng chói như là Vl. Soloviev. Mầm mống của nền triết học Nga mới, đặt nền tảng trên cơ sở nhận thức cao, vượt qua chủ nghĩa duy lí phương Tây, có thể được tìm thấy ở Khomiakov[11]. Bên cạnh đó cón có một nhân vật nữa là Tritrerin, ta có thể học ở ông nhiều điều. Sau đó là Kozlov, Công tước Trubetskoi[12], Lopatin, N. Losski[13], cuối cùng là V. Nesmelov, một người chưa nổi tiếng nhưng là hiện tượng sâu sắc nhất được sinh ra trên nền tảng tách biệt và xa lạ với tình cảm của giới trí thức hàn lâm. Trong nền triết học Nga dĩ nhiên là có rất nhiều sắc thái, nhưng cũng có cái gì đó chung, mang tính đặc thù, tạo ra một truyền thống triết học mới nào đó, khác biệt với truyền thống thịnh hành ở châu Âu đương đại. Dòng chủ lưu của triết học Nga vẫn tiếp tục giữ được các truyền thống triết học của quá khứ, của Hi Lạp và Đức, trong đó vẫn còn sống động tinh thần của Platon và chủ nghĩa duy tâm Đức. Nhưng chủ nghĩa duy tâm Đức đã dừng lại ở giai đoạn cực kì trừu tượng và cực kì duy lí, kết thúc bởi Hegel. Các nhà triết học Nga, bắt đầu từ Khomiakov, đã phê phán kịch liệt chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa duy lí trừu tượng của Hegel và đi theo hướng không phải là chủ nghĩa kinh nghiệm, cũng không theo chủ nghĩa phê phán mới mà theo chủ nghĩa duy tâm cụ thể, chủ nghĩa hiện thực bản thể luận, bổ xung môn huyền học vào lí trí đã đánh mất hiện thực sống động của triết học châu Âu. Không thể không nhận thấy mầm mống sáng tạo của xu hướng mới này của triết học. Triết học Nga chưa đựng trong lòng nó mối quan tâm mang tính tôn giáo và dung hoà tri thức với đức tin. Cho đến nay triết học Nga chưa cung cấp cho người ta “thế giới quan”, theo cái nghĩa mà giới trí thức Nga quan tâm. Nền triết học này không liên quan trực tiếp tới chủ nghĩa xã hội, mặc dù Công tước Trubetskoi đã gọi học thuyết về sự thống nhất của tri thức là chủ nghĩa xã hội siêu hình; nền triết học này cũng không quan tâm tới chính trị theo nghĩa trực tiếp của từ này, mặc dù những người đại diện sáng giá nhất của nó vẫn có một khát khao thầm kín về nước Chúa trên trái đất này. Nhưng nền triết học Nga cũng có những tính chất thân thuộc với giới trí thức Nga, đấy là khát khao một thế giới quan hoàn chỉnh, sự kết hợp một cách hữu cơ chân lí và điều thiện, kiến thức và đức tin. Có thể thấy thái độ thù địch đối với chủ nghĩa duy lí trừu tượng ngay cả ở những nhà triết học Nga theo xu hướng hàn lâm. Tôi nghĩ rằng chủ nghĩa duy tâm cụ thể, gắn với quan điểm thực tiễn có thể trở thành cơ sở của sự sáng tạo triết học mang tính dân tộc của chúng ta và có thể tạo ra truyền thống triết học mang tính dân tộc mà chúng ta cần[14]. Lòng ham mê theo kiểu sớm nở tối tàn các học thuyết thời thượng của châu Âu phải bị chặn đứng bằng truyền thống, cái truyền thống vừa có tính chất toàn cầu, vừa có tính chất dân tộc, chỉ khi đó nó mới trở thành hữu ích đối với văn hoá mà thôi. Trong triết học của Vl. Soloviev và các triết gia Nga gần gũi với ông về mặt tâm hồn, có truyền thống mang tính toàn cầu, truyền thống toàn châu Âu và toàn nhân loại, nhưng có một vài xu hướng của nền triết học này có thể tạo ra cả truyền thống dân tộc nữa. Điều đó sẽ không dẫn tới việc coi thường và cũng không xuyên tạc tất cả các hiện tượng có ý nghĩa quan trọng nào trong tư tưởng châu Âu như đã từng bị giới trí thức theo chủ nghĩa thế giới của chúng ta coi thường và xuyên tạc, mà sẽ dẫn tới việc thâm nhập một cách sâu sắc và với tinh thần phê phán vào bản chất của các hiện tượng đó. Chúng ta không cần sự bịa tạc mang tính phe nhóm mà cần một nền văn hoá triết học nghiêm túc, vừa mang tính toàn nhân loại vừa mang tính dân tộc nữa. Nói cho ngay, Vl. Soloviev và Công tước S. Trubetskoi là những người châu Âu hơn là Bogdanov và Lunatrarski; họ là những người truyền bá tinh thần triết học thế giới và đồng thời lại là các nhà triết học đấy tinh thần dân tộc vì họ đã đặt nền móng cho triết lí của chủ nghĩa duy tâm cụ thể. Thành kiến do lịch sử để lại đã đưa giới trí thức Nga đến thái độ làm cho nó không thể nhìn thấy trong nền triết học Nga cơ sở cho việc tìm kiếm chân lí của mình. Giới trí thức của chúng ta quí trọng tự do nhưng lại theo cái triết lí chẳng có chỗ cho tự do, quí trọng tính cá nhân nhưng lại theo cái triết lí chẳng có chỗ cho cá nhân, quí trọng tư tưởng tiến bộ nhưng lại theo cái triết lí chẳng có chỗ cho tư tưởng tiến bộ, quí trọng tính thống nhất của toàn nhân loại nhưng lại theo cái triết lí chẳng có chỗ cho tính thống nhất của toàn nhân loại, quí trọng lẽ công bằng và mọi điều cao cả khác nhưng lại theo cái triết lí chẳng có chỗ cho công bằng cũng như chẳng có chỗ cho bất kì điều cao cả nào. Đây gần như là khiếm khuyết trong nhận thức do toàn bộ lịch sử của chúng ta để lại. Giới trí thức, đấy là nói cái phần tốt đẹp nhất của nó, sẵn sàng hi sinh thân mình như những kẻ cuồng tín, nhưng đồng thời lại cũng tin vào chủ nghĩa duy vật, tức là cái lí thuyết phủ nhận mọi sự hi sinh, chẳng khác gì những kẻ cuồng tín; triết học vô thần, mà giới trí thức cách mạng lúc nào cũng say mê, không thể biện hộ cho bất kì giá trị thiêng liêng nào, thế mà giới trí thức lại khoác cho triết lí này tính chất thiêng liêng và có thái độ cuồng tín đối với chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa vô thần, chẳng khác gì thái độ của người Công giáo đối với tín ngưỡng của họ. Tư tưởng triết học mang tính sáng tạo phải loại bỏ cho bằng được khiếm khuyết này và đưa được nhận thức ra khỏi ngõ cụt đó. Ai mà biết ngày mai triết lí nào sẽ trở thành thời thượng, có thể là triết học thực dụng của James[15] hay của  Bergson[16], người ta cũng sử dụng họ giống như đã từng sử dụng Avenarius và các nhà triết học khác vậy thôi, mà cũng có thể là một triết lí mới nào đó. Nhưng như thế, về mặt phát triển triết học, chúng ta sẽ chẳng tiến thêm được một bước nào.

Thái độ thù địch mang tính truyền thống của giới trí thức Nga đối với tư duy triết học thể hiện cả ở tính chất của môn huyền học hiện đại của chúng ta. Con đường mới, tờ tạp chí chuyên về những tìm tòi trong lĩnh vực tôn giáo và huyền học, bị ảnh hưởng nặng nề nhất vì không có nhận thức triết học rõ ràng, thậm chí có thái độ coi thường triết học nữa. Những nhà huyền học tuyệt vời của chúng ta như Rosanov, Merezhkovski, Viach. Ivanov, mặc dù đã cung cấp rất nhiều chất liệu cho triết học nhưng lại có thái độ phản triết học, có thái độ phủ nhận tư duy triết học. Vl. Soloviev, người liên kết được huyền học với triết học, đã từng nhận xét rằng người Nga có thói hạ thấp nhân tố trí tuệ. Xin được bổ xung là thái độ thù địch đối với trí tuệ mang tính khách quan có thể thấy ở cả phái “tả” lẫn phái “hữu”. Thế mà môn huyền học của Nga, thực ra là rất có giá trị, lại cần phải được khách quan hoá và tiêu chuẩn hoá về mặt triết học thì mới mang lại nhiều lợi ích cho nền văn hoá của chúng ta. Nếu có thể thì tôi xin nói rằng nguồn gốc “âm” của huyền học cần phải kết hợp với nguồn gốc “dương” của triết học. Cả các nhà huyền học lẫn các trí thức-vô thần Nga đều cần nuôi dưỡng tình yêu đối với việc nghiên cứu khía cạnh triết học của chân lí. Triết học là một trong những cách làm cho huyền học trở thành khách quan; chỉ có tôn giáo tích cực mới có thể có hình thức khách quan trọn vẹn và đầy đủ mà thôi. Giới trí thức Nga thường có thái độ nghi ngờ và thu địch đối với huyền học, nhưng thời gian gần đây đã có một bước ngoặt và sợ rằng trong bước ngoặt này cũng lại xuất hiện mối thâm thù truyền thống với trí tuệ khách quan, cũng như chính huyền học có xu hướng phục vụ cho những mục tiêu xã hội truyền thống.

Cần phải có một cuộc cải cách triệt để trong nhận thức của giới trí thức và ngọn lửa thanh tẩy của triết học có vai trò không nhỏ trong sự nghiệp quan trọng này. Tất cả dữ liệu lịch sử và tâm lí đều cho thấy rằng giới trí thức Nga chỉ có thể đi đến nhận thức mới trên cơ sở kết hợp kiến thức với đức tin, một sự kết hợp đáp ứng được nhu cầu có giá trị tích cực của trí thức là kết hợp một cách hữu cơ lí thuyết với thực tiễn, giữa “sự thật-chân lí” và “sự thật-công bằng”. Nhưng hiện nay chúng ta cần phải công nhận giá trị tự thân của chân lí, qui thận trước chân lí và sẵn sàng nhân danh chân lí mà từ bỏ các tín điều của mình[17]. Điều đó sẽ tạo ra một luồng gió mới trong sự nghiệp sáng tạo văn hoá của chúng ta. Vì triết học là bộ phận tự nhận thức của tâm hồn con người, nhưng đây không phải là bộ phận của cá nhân mà là siêu việt lên trên cá nhân và mang tính thống nhất. Nhưng tính siêu việt và thống nhất của nhận thức triết học lại chỉ có thể được thực hiện trên cơ sở của truyền thống toàn cầu và dân tộc. Củng cố truyền thống đó chắc chắn sẽ giúp thúc đẩu quá trình hồi sinh nền văn hoá Nga. Đây là quá trình hồi sinh đã được chờ đợi từ lâu, việc đánh thức những tâm hồn đang mơ màng ngủ đòi hỏi sự giải phóng không chỉ về mặt chính trị mà còn giải phóng khỏi quyền lực nặng nề của chính trị, khai phóng tư tưởng, một sự khai phóng hiếm khi gặp ở những chiến sĩ đấu tranh cho việc giải phóng về mặt chính trị của chúng ta[18]. Lịch sử nước Nga đã tạo ra giới trí thức Nga, tâm lí của nó thể hiện những khuyết tật của cái lịch sử bệnh hoạn của chúng ta, của chính quyền và phản ứng cố hữu của chúng ta. Chế độ chuyên chế già cỗi đã làm méo mó tâm hồn giới trí thức, nô dịch nó không chỉ bên ngoài mà cả bên trong vì nó đã đánh giá tâm hồn người trí thực một cách tiêu cực. Nhưng chỉ những người không xứng đáng với tự do mới luôn kết án những lực lượng ngoại tại và dùng chúng để biện hộ cho mình. Chính giới trí thức cũng có lỗi: thái độ vô thần trong nhận thức của nó chính là khiếm khuyết của ý chí, nó đã tự chọn lấy con đường sùng bái con người và đã tự làm méo mó tâm hồn mình, đã giết chết bản năng hướng đến chân lí ngay trong chính mình. Chỉ có nhận thức được cái ý chí mà trí tuệ có thể hiểu được đó mới có thể đưa chúng ta đến một đời sống mới mà thôi. Chúng ta chỉ có thể giải thoát khỏi cái ách ở bên ngoài khi giải thoát khỏi sự nô dịch ở bên trong, nghĩa là khoác lên mình trách nhiệm và không kết án tất cả các lực lượng ngoại tại trong tất cả mọi chuyện nữa. Đấy là lúc giới trí thức sẽ có một tâm hồn hoàn toàn mới.

Năm 1909.

Đã đăng trong tập tiểu luận Về trí thức Nga, Nhà xuất bản trí thức, Hà Nội, 2009.

N. A. Berdaev (1874-1948) một nhà triết học lớn, từng có thời say mê chủ nghĩa Marx và bị đi đầy vì các hoạt động cách mạng trong phong trào sinh viên. Bị bắt đi lưu đầu từ năm 1922, từ đó hoạt động khoa học của ông diễn ra ở Paris cho đến cuối đời. Bài Chân lí của triết học và sự thật của người trí thức được đăng trong tập Những cột mốc, xuất bản năm 1909.







[1] P. B. Struve (1870-1944), nhà kinh tế học, triết học, sử học nổi tiếng người Nga, từ năm 1920 sống lưu vong ở nước ngoài.
[2] Riehl (1844-1924), triết gia người Đức, giáo sư triết học ở Berling (1905-1917), là người theo phái Hegel trẻ - ND.

[3] Georg Simmel (1858-1918) là thuộc thế hệ đầu tiên của những nhà xã hội học người Đức

[4] Fichte I. (1762-1818), đại diện nổi tiếng của trường phái triết học cổ điển Đức.
[5] Tác phẩm của Avenarius, gồm 2 tập, xuất bản năn 1888-1890.
[6] Avenarius không giải thoát khỏi các “tiền đề”, quan điểm nhận thức lận của ông rất lộn xộn, có hơi hám của “chủ nghĩa duy vật” và “thuyết duy linh” và nhiều thứ khác nữa, nhưng không đơn giản chút nào.

[7] Traadaev P. Ia. (1794-1856), Nhà tư tưởng và chính luận nổi tiếng người Nga.
[8] Cohen (1842-1918) - triết gia người Đức, người sáng lập và đại diện nổi tiếng nhất của trường phái Kant trẻ ở Marburg.

[9] Windelband (1848-1915) - triết gia người Đức, người sáng lập và đại diện nổi tiếng nhất của trường phái Kant trẻ ở Baden
[10] Comte (1798-1857) - Triết gia, nhà xã hội học… người Pháp, người sáng lập trường phái triết học mang tên chủ nghĩa thực chứng.
[11] Khomiakov A. S. (1804-1860), triết gia, nhà thơ và nhà chính luận nổi tiếng người Nga.
[12] Công tước Trubetskoi (1863-1920), nhà triết học và luật học nổi tiếng người Nga.
[13] N. Losski (1870-1965), triết gia nổi tiếng người Nga, từ năm 1922 phải sống kư vong.
[14] Chân lí không thể mang tính dân tộc, chân lí bao giờ cũng là vạn năng, nhưng các dân tộc khác nhau có thể có sứ mệnh phát hiện ra những khía cạnh khác nhau của chân lí. Tính chất tâm hồn của dân tộc Nga chỉ ra rằng chúng ta có sứ mệnh sang tạo trong kĩnh vực triết học mang tính tôn giáo.

[15] James W. (1842-1910),  nhà triết học và tâm lí học nổi tiếng người Mĩ
[16] Bergson A. (1859-1941), triết gia nổi tiếng người Phap.
[17] Qui thuận chân lí có giá trị đạo đức to lớn, nhưng điếu đó không được dẫn tới việc sùng bái chân lí trừu tượng, chân lí chết.

[18] Việc giải phóng về mặt chính trị chỉ có thể được thực hiện cùng với việc hồi sinh về tinh thần và văn hoá và trên cơ sở của sự hồi sinh đó.

No comments:

Post a Comment